VÙNG ĐẤT MỚI TÂN THÀNH –
NHỮNG
GAM MÀU TƯƠI SÁNG
Nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, với diện tích gần 34 ngàn hécta,
huyện Tân Thành như một bức tranh thiên nhiên thơ mộng với những gam màu tươi
sáng.
Núi, rừng, sông, rạch… tất cả đều hội tụ về đây, tạo nên những cánh đồng trù
phú, màu mỡ, quanh năm cây cối tươi tốt.
Thiên nhiên đã ban tặng ho vùng đất Tân Thành những dãy núi cao nhấp nhô trùng
điệp, bốn mùa phủ một màu xanh ngắt.
Núi Dinh, núi Tóc Tiên, núi Ông Trịnh, núi Thị Vải… đó là những địa danh nổi
tiếng của huyện Tân Thành. Những dãy núi cao được xếp liền kề nhau theo thế
liên hoàn, giống như những bức tường thành, tạo thế đứng vững chắc cho vùng đất
này suốt nhiều thế kỷ.
Núi Dinh, hồi trước thế kỷ 18 được gọi là núi Trấn Biên, cùng tên với vùng đất
rộng lớn Biên Hòa – Bà Rịa, cao 504 mét.
Núi Tóc Tiên ở phía Đông Bắc huyện Tân Thành, thuộc địa phận xã Tóc Tiên cao
433 mét. Sách xưa có ghi lại rằng: “Vào đầu thế kỷ 19, núi này có tên gọi là
núi Bà Ký. Cách phía đông trấn 91 dặm, có lẫn đất đá, có suối nước ngọt, cây
cối um tùm, chim muông nhiều vô kể. Nhân dân bốn phương kéo đến đây dựng lều ở,
chuyên nghề săn bắn và lấy gỗ để sinh nhai…”
Trong quá khứ, những ngọn núi nơi đây đã từng ghi dấu bước đường di cư, quá
trình khai phá vùng đất Nam Bộ của người Việt.
Không chỉ có núi, xa xa về phía Tây, dòng sông Thị Vải thơ mộng chảy uốn khúc
quanh co giữa những cánh rừng đước xanh ngút ngàn của huyện Tân Thành, nối liền
3 tỉnh: Thành phố Hồ Chí Minh – Đồng Nai và Bà Rịa – Vũng Tàu. Ven sông Thị
Vải, một vùng đầm lầy rộng lớn, với hơn 4 ngàn hécta rừng ngập mặn, là nơi sinh
sống của nhiều loài thực vật, các loại chim, động vật có vú, bò sát và các sinh
vật lưỡng cư khác. Sông Thị Vải có chiều dài hơn 30 km, chiều rộng trung bình
từ 600 đến 800 mét, bắt nguồn từ suối Bưng Môn, huyện Long Thành (tỉnh Đồng
Nai) chảy qua huyện Tân Thành rồi đổ ra vịnh Ghềnh Rái, với lưu vực trên 700
km2, độ sâu từ 10 đến 25 mét, có khả năng đón được tàu trọng tải lớn (80 ngàn
tấn). Cùng với sông Thị Vải, Tân Thành còn có một hệ thống suối dày đặc bắt
nguồn từ các ngọn núi cao, đổ ra sông Lòng Tàu và sông Thị Vải, tạo thành một
hệ thống kênh rạch chi chít, là nguồn nước ngọt mênh mông vô tận cung cấp cho
sản xuất và sinh hoạt của cư dân trong vùng.
Tân Thành nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa chịu ảnh hưởng của Đại
Dương, với 2 mùa mưa nắng rõ rệt. Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1.600
mm, tập trung chủ yếu vào mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 10).
Là vùng đất bán sơn địa, Tân Thành vừa có núi, vừa có đồng bằng và rừng ngập
mặn ven biển, nên thổ nhưỡng ở đây rất phong phú đa dạng, thích hợp trồng các
loại cây ăn trái lâu năm và cây công nghiệp.
Về Tân Thành hôm nay, người ta vẫn còn nghe truyền tụng trong dân gian câu ca:
“Tôm cá Hội Bài, chuối xoài Long Phước…”. Câu ca ấy thể hiện những làng nghề
truyền thống từ thời xa xưa và cuộc sống trù phú của những người dân vùng này.
Trong quá trình chinh phục thiên nhiên, cư dân Tân Thành xưa đã sớm biết mưu
sinh bằng nhiều nghề truyền thống, như: làm lúa nước, khai thác lâm sản, đánh
bắt thủy hải sản, trồng trọt, chăn nuôi và các nghề thủ công truyền thống… Cư
dân nơi đây còn có nghề làm bánh trái cây rất ngon và giàu hương vị.
Nói đến vùng đất Tân Thành, người ta không thể không nhắc đến nghề làm đá, một
nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống của địa phương, đến nay vẫn được duy trì
và phát triển ở các xã dọc Quốc lộ 51.
Cùng với quá trình khai hoang, mở đất, Tân Thành được xác định địa giới hành
chính ngay từ những năm đầu của thế kỷ 16. Tuy nhiên, vùng đất này chỉ mới thực
sự phát triển mạnh trong khoảng hơn 100 năm trở lại đây. Theo nhiều nguồn
tư liệu lịch sử cho biết, Tân Thành xưa là địa bàn sinh sống chủ yếu của người
dân tộc Châu Ro, thuộc tổng Phước An, huyện Phước Long, dinh Trấn Biên (nay
thuộc tỉnh Đồng Nai). Năm 1867, thực dân Pháp cai trị, chia tỉnh Biên Hòa thành
5 địa hạt, Tân Thành thuộc hạt Bà Rịa. Trải qua nhiều thập niên, tên gọi của vùng
đất này cũng nhiều lần được thay đổi, và đến tháng 6/1994 mới chính thức có tên
gọi là huyện Tân Thành theo Nghị định 45/CP của Chính phủ, trên cơ sở tách ra
từ huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Nai cũ.
Nhìn vào hình ảnh của Tân Thành hôm nay, ít ai có thể nhận biết được Tân Thành
xưa là địa bàn tranh chấp quyết liệt giữa ta và địch. Trong suốt hai cuộc kháng
chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nơi đây là địa bàn chiến
lược quân sự quan trọng, là cầu nối giữa khu Đông với khu Tây, rừng Sác với
rừng Giồng, là địa bàn đứng chân của lực lượng cách mạng, để từ đó tạo bàn đạp
tấn công địch ở Bà Rịa - Vũng Tàu. Trong kháng chiến chống Mỹ, núi Dinh là căn
cứ địa cách mạng của tỉnh ủy, thị ủy Bà Rịa, huyện ủy Châu Đức…
Nhắc đến Tân Thành hôm nay, người ta vẫn không thể nào quên được những tên đất,
tên người, gắn liền với những trang lịch sử hào hùng của dân tộc, được viết lên
bởi biết bao thế hệ cha ông đi trước: Chiến khu Hắc Dịch, lộ 15, các xã: Mỹ
Thạnh, Mỹ Xuân, Phước Long, Hội Bài, địa danh Bà Trao – Núi Nứa, v.v…
Qua hai cuộc kháng chiến oanh liệt chống giặc ngoại xâm đã để lại cho quê hương
Tân Thành hàng ngàn đối tượng chính sách, trong đó có hàng trăm gia đình liệt
sỹ, thương bệnh binh.
Hơn 30 năm sau chiến tranh, Tân Thành đã vượt qua biết bao gian khó, từng bước
chuyển mình, vươn lên, tương xứng với tầm vóc của một vùng đất nằm trong vùng
kinh tế động lực các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Tân Thành giờ đây đã hoàn toàn đổi
khác.
Là địa bàn nằm trong chiến lược quốc gia về phát triển các khu công nghiệp tập
trung với quy mô lớn, đến nay, huyện Tân Thành đã phát triển được 9 khu công
nghiệp tập trung là: Mỹ Xuân A, Mỹ Xuân A2, Mỹ Xuân A mở rộng, Mỹ Xuân B1, khu
công nghiệp Phú Mỹ 1... và khu công nghiệp Cái Mép với diện tích hơn 3 ngàn
hécta, thu hút 85 dự án đầu tư với tổng số vốn trên 4 tỷ USD, trong đó hầu hết
là các dự án có quy mô lớn, công nghệ hiện đại, có ý nghĩa quan trọng đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, cũng như của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu,
như dự án đường ống dẫn khí và trạm phân phối khí đốt Phú Mỹ, tổ hợp các nhà
máy điện, các nhà máy sản xuất phân bón, thép, xi măng…
Với lợi thế về nguồn khí thiên nhiên khai thác ngoài khơi và vị trí địa lý
thuận lợi, Tân Thành đã trở thành trung tâm khí – điện – đạm lớn nhất cả nước.
Nhiều sản phẩm công nghiệp ở đây giữ vai trò chủ đạo đối với nền kinh tế quốc
dân như điện hòa lưới quốc gia cung cấp cho các tỉnh phía Nam, sản phẩm đạm và
các sản phẩm phân bón khác cung cấp cho toàn bộ khu vực sản xuất nông nghiệp,
các tỉnh miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Chỉ tính riêng nhà máy đạm Phú Mũ đã
đạt sản lượng đạm hơn 700 ngàn tấn urê một năm, chiếm 30% thị phần urê cả nước.
Trung tâm điện lực Phú Mỹ với 6 nhà máy điện đạt tổng công suất gần 4 ngàn MW,
chiếm 40% tổng công suất các nhà máy điện trong toàn quốc, mỗi năm có khả năng
cung cấp 23 tỷ KWh điện, tiêu thụ 4 tỷ m3khí thiên nhiên. Nhà máy thép
Vinakyoei chuẩn bị cho ra đời một lò luyện phôi thép lớn nhất
Việt Nam với công suất 350 ngàn tấn/1 năm.
Tân Thành có hệ thống cảng biển vô cùng quan trọng, được phân bố ở 2 khu vực:
khu vực Thị Vải – Phú Mỹ (thuộc vùng thượng lưu sông Thị Vải) và khu vực Thị
Vải – Cái Mép, bao gồm các cảng: Bà Rịa Serece, cảng quốc tế Thị Vải, cảng
Container quốc tế Thị Vải – Cái Mép, cảng nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ, cảng xi
măng Holcim, cảng nhà máy thép Phú Mỹ, cảng Interflour, cảng PVC và cảng dầu
Petec. Trong toàn bộ cụm cảng biển khu vực thành phố Hồ Chí Minh – Đồng Nai –
Bà Rịa Vũng Tàu, thì cảng Container Cái Mép và cảng tổng hợp Thị Vải thuộc địa
bàn huyện Tân Thành được xác định là cảng trọng điểm, được nhà nước ưu tiên đầu
tư bằng nguồn vốn ODA của Nhật. Trước mắt cụm cảng này sẽ phục vụ cho việc di
dời cảng thành phố Hồ Chí Minh và phục vụ cho việc giao lưu hàng hóa ở các khu
công nghiệp, hướng tới sự ổn định, nâng cao chất lượng phục vụ khai thác cảng
biển. Trong chiến lược phát triển kinh tế ở nước ta, nơi đây sẽ trở thành một
cụm cảng tổng hợp có chức năng trung chuyển quốc tế và làm đầu ra cho tuyến
đường Xuyên Á ở phía Nam. Nhờ hệ thống cảng biển này mà nhiều nhà đầu tư
trong và ngoài nước không thể bỏ qua nơi này.
Là cửa ngõ giao lưu thương mại, kinh tế và động lực cho cả vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam, Tân Thành không chỉ thuận lợi về giao thông đường thủy, mà còn
rất thuận lợi cả về giao thông đường bộ, đường sắt và đường hàng không.
Quốc lộ 51 với 22 km đi qua huyện Tân Thành nối liền thành phố biển Vũng Tàu,
thành phố Bà Rịa với thành phố Biên Hòa và thành phố Hồ Chí Minh. Đây là con đường
huyết mạch với lưu lượng xe lưu thông hơn 60 ngàn ô tô, xe máy một ngày một
đêm. Tuyến đường Mỹ Xuân – Ngãi Giao nối huyện Tân Thành với Quốc lộ 55, 56 đi
các tỉnh miền Trung Nam Bộ được mang tên: “Con đường đẹp nhất Việt Nam”.
Ngoài ra, Tân Thành còn có hơn 200 km đường giao thông, trong đó có các tuyến
đường liên huyện như: đường Phú Mỹ - Tóc Tiên, đường Tóc Tiên – Hội Bài, đường
Châu Pha – Tóc Tiên – Hắc Dịch, đường Châu Pha – Bàu Phượng – Hắc Dịch và đường
Sông Xoài – Cù Bị.
Sắp tới, tuyến đường Quốc lộ 51 sẽ được Bộ Giao thông vận tải nâng cấp mở rộng
thành đường 6 làn xe, đồng thời tiếp tục mở rộng thêm tuyến đường sắt và đường
cao tốc Long Thành – Vũng Tàu với quy mô 8 làn xe chạy.
Tương lai không xa, Tân Thành sẽ thuận lợi cả về đường hàng không khi sân bay
Long Thành (tỉnh Đồng Nai) đi vào hoạt động.
Thế mạnh và tiềm năng to lớn của vùng đất này đã giúp cho chính quyền và nhân
dân nơi đây có nhiều cơ hội thúc đẩy nền kinh tế địa phương phát triển. Công
nghiệp đang trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của huyện Tân Thành. Đến nay, toàn
huyện đã có hơn 800 cơ sở sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp bao gồm
các ngành khai thác đá xây dựng, vật liệu xây dựng, gia công cơ khí, chế biến
gỗ, lắp ráp hàng điện tử v.v… , giá trị sản xuất bình quân hàng năm tăng 23%.
Các cụm công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp tại các xã Hắc Dịch, Tóc Tiên, Tân
Hòa đang được triển khai xây dựng. GDP bình quân đầu người đạt 786 USD. Công
nghiệp phát triển đã tác động thúc đẩy các ngành dịch vụ thương mại phát triển.
10 xã, thị trấn trong huyện đều có chợ. Dịch vụ bưu chính viễn thông không
ngừng được mở rộng theo hướng hiện đại hóa. Toàn huyện có gần 2.800 máy điện
thoại thuê bao, bình quân 11 máy/100 dân. Hơn 97% hộ dân được sử dụng điện. Nông
lâm ngư nghiệp cũng có bước phát triển. Đời sống nhân dân ngày càng được cải
thiện. Hình ảnh một thành phố công nghiệp hoành tráng trong tương lai đang từng
bước được định hình.
Với khí thế sôi động khẩn trương, Tân Thành giờ đây đã và đang trở thành một
công trường lớn. Con số hơn 100 ngàn dân, tăng hơn 10 ngàn dân trong vòng 10
năm trở lại đây và gần 10 ngàn lao động đang làm việc tại các khu công nghệp đã
cho thấy vùng đất này có sức hút rất lớn dân cư từ các tỉnh thành trong nước đổ
về đây lập nghiệp.
Không chỉ có tiềm năng kinh tế, Tân Thành còn là nơi tham quan du lịch. Núi
Dinh là địa chỉ về nguồn, thu hút hàng ngàn thanh thiếu niên trong các tổ chức
đoàn hội đến tham quan tìm hiểu lịch sử đấu tranh cách mạng của quân và dân Bà
Rịa – Vũng Tàu. Suối Đá – Suối Tiên thuộc địa bàn xã Tân Hải cũng là một địa
chỉ du lịch quen thuộc của các bạn trẻ xa gần. Lấp ló sau những vòm lá xanh
thẫm của cây rừng là những ngôi chùa cổ nằm ẩn khuất trên triền núi, tạo nên sự
huyền bí thiêng liêng. Nơi đây đang được ngành du lịch khai thác, xây dựng
thành khu du lịch sinh thái Lâm Viên – Núi Dinh với diện tích 720 hécta.
Vào dịp Tết Nguyên Đán hàng năm, khu vực chùa Đại Tòng Lâm, trung tâm thị trấn
Phú Mỹ với gần 100 chùa và các am thất đã thu hút hàng ngàn khách thập phương
hành hương về đây thắp một nén nhang thơm ngày đầu năm mới.
Sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đã tạo nên vóc dáng trẻ trung, năng
động của vùng đất mới Tân Thành. Ngọn lửa dầu khí của Bà Rịa – Vũng Tàu đã thắp
sáng niềm tin vào cuộc sống tương lai của những người dân nơi đây. Cũng như các
địa phương khác trong tỉnh, Tân Thành chắc chắn sẽ có nhiều cơ hội để tiến
nhanh hơn trên con đường hội nhập và phát triển.
Hòa với muôn ngàn sắc màu rực rỡ của bức tranh toàn cảnh Tân Thành hôm nay,
không chỉ có sắc màu nâu đỏ của những ngôi nhà mới xây, sắc xanh tươi của núi
rừng cây lá, sắc tím của chiều hoàng hôn, sắc đỏ tươi của những lá cờ tổ quốc
tung bay trong gió… Đây, còn có cả sắc thiêng của hồn sông núi nơi này…/.
Ngày 30/4/2006
ĐÀO QUỐC THỊNH
LỊCH SỬ ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG CỦA NHÂN DÂN HUYỆN TÂN
THÀNH
Bài 1
Truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Tân
Thành
____________________________
Vùng đất Tân Thành
trước đây vốn là địa bàn cư trú của một số đồng bào dân tộc ít người mà chủ yếu
là dân tộc Châuro. Trong quá trình khai hoang mở đất về phương Nam của người
Việt trong các thế kỷ 17, 18, một bộ phận người Việt có thể đã sinh sống tại
Tân Thành, nhưng chắc chắn không nhiều bằng các địa bàn khác ở Bà rịa –Vũng
tàu.
Quá trình hình
thành làng xóm đông đúc ở Tân Thành chỉ phát triển mạnh từ nửa sau đến cuối thế
kỷ 19. Quá trình đó được bổ sung, tiếp tục phát triển bởi những nguồn dân cư
mới, từ nhiều vùng khác nhau tụ cư về đây trong những hoàn cảnh đặc biệt (chính
sách dồn dân của thực dân xâm lược, chiến tranh tàn phá, sự bóc lột, áp bức hà
khắc, sưu cao thuế nặng buộc nông dân phải đi tìm đất sống…). Họ đã chọn Tân
Thành, một vùng đất chưa khai phá để sinh cơ lập nghiệp. Tuy nhiên, dù được bổ
sung trong hoàn cảnh nào thì những người đến vùng đất Tân Thành đều là những
người nông dân giàu truyền thống yêu nước, cần cù, sáng tạo trong lao động sản
xuất. Chính họ đã khai sơn phá thạch, cải tạo núi đồi, đồng hoang, đầm lầy để
biến Tân Thành một vùng đất trù phú và đầy hứa hẹn như hôm nay.
Dưới thời Tự Đức,
vào lúc 10 giờ, ngày 10/2/1859, thực dân Pháp nổ súng bắn vào pháo đài Phước
Thắng Vũng Tàu, chính thức mở màn cho quá trình xâm lược Nam kỳ. Quân và dân Bà
Rịa –Vũng Tàu đã kiên cường chiến đấu chống trả những chiến hạm được trang bị
hiện đại của liên quân Pháp-Tây Ban Nha. Trận chiến kéo dài ngót 7 tiếng đồng
hồ, nhưng cuối cùng tuyến phòng thủ Vũng Tàu của nhà Nguyễn đã bị chọc thủng.
Ngày hôm sau, giặc Pháp chuyển qua tấn công trận địa bảo vệ hỗn hợp thủy bộ của
quân ta ở phía Tây cửa Cần Giờ, mở đường đánh chiếm thành Gia Định.
Ngày 14/12/1861,
Biên Hòa rơi vào tay người Pháp, lính thú người Việt rút lui qua Tân Thành về
Bà Rịa. Tại đây, Đô đốc Lê Quang Tuyên đã chuẩn bị lực lượng-tập hợp những
người lính của triều đình, ngăn cản bước tiến của Pháp bằng đường bộ từ Biên
Hòa về Bà Rịa. Đây là một trong những lý do buộc Pháp phải dời lại thời gian và
đánh Bà Rịa từ một hướng khác.
Ngày 7 tháng Giêng
năm 1862, thực dân Pháp dùng tàu chiến đánh Bà Rịa. Sáu tháng sau chúng mới
hoàn toàn chiếm được thủ phủ của Phước Tuy (7/1862). Tại đây, Pháp tập trung
lực lượng đánh chiếm các đồn luỹ của quân khởi nghĩa. Khi không đủ sức cầm cự,
một bộ phận nghĩa quân đã rút vào vùng đồng bào dân tộc; một bộ phận khác lui về
rừng núi Cù Mi, gần Bình Thuận; một bộ phận còn lại bám địa bàn quanh núi Dinh
xây dựng căn cứ kháng chiến. Họ đã liên lạc với nghĩa quân Trương Quyền, con
trai bình Tây Đại Nguyên soái Trương Định chống Pháp.
Trong buổi đầu
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đồng bào dân tộc ít người trên địa
bàn Tân Thành đã có nhiều đóng góp quan trọng về sức người, sức của, trực tiếp
tham gia chiến đấu và che chở nghĩa quân kháng chiến. Điều đó phần nào nói lên
sự đoàn kết chiến đấu ngoan cường, quyết không cho kẻ thù xâm lược tấc đất cha
ông của quân dân Bà Rịa-Vũng Tàu.
Sau khi chiếm được
Sài Gòn và Mỹ Tho, vì địa bàn rộng, lính thiếu, mệt mỏi lại phải giãn quân để
đối phó với các hoạt động chống trả của quân và dân ta ở phía Đông (Biên Hòa Và
Bà Rịa), thực dân Pháp phải tạm ngừng các cuộc hành quân lớn. Vào thời điểm
này, ở vùng Bà Rịa, chúng chỉ xây dựng một đồn duy nhất ở làng Phú Mỹ, gần
đường Sông đi Sài Gòn, làm nơi trấn giữ cửa ngõ quan trọng và đầu mối thông tin
để điều binh khi hữu sự.
Cũng tại đây, ngày
3 tháng 7 năm 1862, Trưởng thôn Phú Mỹ, vì có hành động phản kháng đã bị các
lính Pháp giết chết. Cái chết của một vị Trưởng thôn có thể là sự kiện không
lớn, nhưng tiêu biểu ở Bà Rịa, được sử sách nhắc lại nhiều lần. Trong hoàn cảnh
đó, nó chứng tỏ tinh thần, thái độ cương quyết chống Pháp của nhân dân vùng đất
Tân Thành.
Tháng 8 năm 1864,
lãnh tụ Trương Định, vốn rất ảnh hưởng ở miền Đông Nam bộ bị hy sinh. Phong
trào chống Pháp ở phủ Phước Tuy nói riêng và Nam bộ nói chung suy yếu dần
Sau này, khi phong
trào Cần Vương phát triển (1885-1896), Tân Thành là địa bàn dừng chân, đi về
kêu gọi nhân dân đứng lên chống Pháp của những người một lòng cứu nước. Khi
phong trào Cần Vương bị vỡ, nhiều sĩ phu yêu nước không hợp tác với giặc đã lên
núi Dinh mai danh ẩn tích, tu chí chờ thời cơ. Những người yêu nước đó đã để
lại trên núi Dinh nhiều địa danh, dấu tích chùa chiền còn lại đến hôm nay.
Đời sống người dân
Tân Thành vốn hết sức khổ cực. Họ sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt hải sản, khai
thác củi, gỗ, múc dầu chai trên núi. Mùa mưa vào rừng trồng tỉa, mùa khô lấy
cũi, đánh bắt cá. Nhận xét về vùng đất Tân Thành, sách Chuyên khảo về Bà Rịa và
thành phố Cap Saint Jacques viết: chỉ có cây đước là sống được ở môi trường
nước lợ này với những chùm rễ rậm rạp như lưới giữ lại bùn đất phù sa… nhưng
công việc này của thiên nhiên chưa hoàn thành và còn biết bao năm nữa đất các
làng Thạnh An, Hội Bài và Phước Hòa có thể trồng gì khác ngoài cây đước lấy gỗ
đốt than.
Trong thời kỳ kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược, mặc dù dân số Tân Thành không đông như
những địa phương khác ở Bà Rịa –Vũng Tàu, nhưng tuyệt đại đa số là dân lao
động, rất cần cù và một lòng một dạ theo cách mạng.
Cuộc sống bình
thường vốn đã quá khó khăn, huống chi người dân Tân Thành phải chịu ách áp bức
bóc lột của thực dân Pháp.
Tóm lại, trong quá
khứ Tân Thành là vị trí đầu mối, là con đường quan trọng trong quá trình mở đất
về phương Nam. Trong các cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc, vùng đất Tân
Thành là vị trí quân sự chiến lược quan trọng. Nhân dân các xã vùng lộ 15 (nay
là Quốc lộ 51) đã đóng góp nhiều nhân tài vật lực cho cách mạng trong suốt hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân
dân các xã Hắc Dịch, Mỹ Xuân, Hội Bài đã được Nhà nước tuyên dương danh hiệu
cao quý: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Thành tích của nhân dân và lực
lượng vũ trang nhân dân các xã Hắc Dịch, Mỹ Xuân, Hội Bài đã được Nhà nước
phong tặng cũng chính là thành tích chung của nhân dân và lực lượng vũ trang
nhân dân các xã của vùng đất Tân Thành xưa.
Trong tương lai,
đây sẽ là khu vực giãn dân cho các đô thị lớn ở miền Đông Nam bộ. Tân Thành sẽ
trở thành điểm sáng trong quá trình phát triển các khu công nghiệp tập trung.
Khi các dự án thành phần trong dự án tổng thể liên hiệp khí-điện-đạm hoàn
thiện, Phú Mỹ sẽ là trung tâm điện năng lớn nhất Đông Nam Á. Tương lai tươi đẹp
đó được bắt nguồn từ quá khứ và hiện tại./.
Bài 2
Nhân dân Tân Thành giai đoạn 1930-1935
__________________________
Đầu thế kỷ 20, nhằm
khai thác tối đa nguồn lợi của vùng đất này, thực dân Pháp đã tăng cường vốn
đầu tư, mở rộng các đồn điền trồng cây công nghiệp, xây dựng một số cơ sở chế
biến nông sản. Trên địa bàn lộ 15, chúng xây dựng đồn điền mía và nhà máy đường
ở Bậc Lở (Mỹ Xuân), xây dựng cảng trên sông Thị Vải (bến Bà Phóng-Phú Thạnh).
Mặc dù còn ở qui mô nhỏ, khu vực Mỹ Xuân đã sớm hình thành những cơ sở
kinh tế và dịch vụ phục vụ công cuộc khai thác thuộc địa ở xứ sở này. Đây là
tiền đề dẫn đến sự thay đổi cơ cấu dân cư, một bộ phận giai cấp công nhân, nông
nghiệp đã hình thành trong các đồn điền mía, đồn điền cao su trong vùng, công
nhân nhà máy đường Mỹ Xuân và công nhân dịch vụ ở cảng Thị Vải.
Để bảo vệ lộ 15,
tuyến giao thông chiến lược nối Sài Gòn - Biên Hòa - Bà Rịa-Vũng Tàu, thực dân
Pháp đã tăng cường lực lượng đóng đồn bót và thiết lập các chi khu quân sự. Án
ngữ hai đầu tuyến lộ 15, trên đoạn đường gần 30 km đi qua tỉnh Bà Rịa là Chi
khu quân sự Mỹ Xuân (sau đổi thành Phú Mỹ) và Chi khu quân sự Long Lễ cùng với
một hệ thống đồn bót dọc tuyến lộ này. Đây cũng là hai Chi khu quân sự án ngữ
hai đầu vùng đất Tân Thành.
Thực dân Pháp rất
coi trọng vị trí kinh tế và quân sự của con đường chiến lược này. Theo nhận xét
của một sĩ quan tham mưu Pháp thuộc Bộ chỉ huy quân khu Miền Đông Nam bộ (Secteur
Biên Hòa) thì: “Quốc lộ 15 vừa là đường giao thông kinh tế, vừa là tuyến đường
phục vụ cho Biên Hòa để trực tiếp chỉ huy và tăng viện cho hai tiểu khu trực
thuộc là sous secteur Bà Rịa và sous secteur autonome Nước ngọt… khống chế được
giải đất rộng lớn ở phía Đông Nam; kiểm soát phần nửa tỉnh phía Tây kể cả rừng
Sác và bảo vệ được 3 đường giao thông… làm hậu thuẫn vững chắc cho Cấp ở phía
Nam; giữ chắc sườn phía Đông Nam của huyện Long Thành và sườn phía Nam của lực
lượng chiếm đóng Pháp-Việt ở huyện Xuyên Mộc…
Ngoài hệ thống đồn
bót và bộ máy cai trị thực dân ở cấp tỉnh, cấp quận, thực dân Pháp tổ chức ra
hệ thống chính quyền phong kiến tay sai ở làng xã để tiếp tay cho chúng thống
trị, lừa bịp, đàn áp, bóc lột nhân dân. Dưới chính quyền thuộc địa, các xã
trong huyện Tân Thành ngày nay đều đặt thuộc quận Long Lễ, có Ban hội tề ở ba
làng Phước Hòa, Long Hương và Phú Mỹ. Phần lớn các lân ấp phía rừng Sác Hội Bài
đặt dưới quyền kiểm soát của Ban Hội tề Phước Hòa. Ban Hội tề tổ chức kềm kẹp,
bắt phu, bắt lính, đàn áp, bóc lột sức lao động của nhân dân.
Cũng như nhiều địa
phương khác ở Nam bộ và Bà Rịa-Vũng Tàu, khi thực dân Pháp tiến hành cuộc khai
thác thuộc địa lần thứ nhất và thứ hai, phong trào đấu tranh của nhân dân
chuyển hướng sang những hình thức mới. Đó là những “hội kín” tuyên truyền, huấn
luyện, chờ thời chống Pháp, như hội kín của Sư tổ Huệ Đăng vốn là người tham
gia phong trào Cần Vương của Mai Xuân Thưởng từ Bình Định vào hoạt động ở vùng
Long Đất, Bà Rịa…
Mạng lưới hoạt động
của những hội kín này khá rộng, ảnh hưởng lớn ở Bà Rịa-Vũng Tàu, trong số đó có
nhiều gương mặt tiêu biểu hoạt động trên những địa bàn gần gũi với khu vực lộ
15 như Hòa thượng Pháp Trí (chùa Báo Ân, đệ tử của sư tổ Huệ Đăng); ông Hai Tâm
(Long Điền); ông Của, ông Khuê (Long Phước); ông Đình Đài, ông Sáu Lạc ở Long
Kiên, Long Xuyên (Hòa Long) và những hoạt động mang tính chất hội kín của đạo
Ông Trần do ông Lê Văn Mưu ở Bà Trao-Núi Nứa chủ trì với mối quan hệ tự nhiên
với các làng Hội Bài, Phước Hòa, Mỹ Xuân…
Sự xuất hiện của giai
cấp công nhân, một lực lượng cách mạng mới đã đem lại những nét mới trong phong
trào đấu tranh của nhân dân vùng lộ 15. Khu vực Mỹ Xuân tập trung khá nhiều
công nhân tại đồn điền mía và nhà máy đường, cảng Thị Vải và một số đồn điền
cao su lân cận. Năm 1929, công nhân đồn điền mía-Nhà máy đường Mỹ Xuân đã tổ
chức một cuộc đấu tranh đòi bọn chủ tư bản Pháp phải tăng lương và chống đánh
đập, sa thải công nhân. Cuộc đấu tranh với các khẩu hiệu dân sinh dân chủ,
trong một phạm vi hẹp song nó có tác dụng trực tiếp, hun đúc tinh thần chống
Pháp của nhân dân vùng lộ 15.
Trước năm 1930, một
bộ phận giai cấp công nhân đã hình thành trên địa bàn lộ 15, song phần lớn dân
chúng vẫn chủ yếu làm nghề nông, dựa vào ruộng, rẫy và khai thác những nguồn
lợi tự nhiên, như đốn củi, hầm than, múc dầu chai, đánh bắt tôm cá bán cho các
chủ vựa.
Cho đến năm 1930,
dân cư sinh sống tại vùng đất Tân Thành vẫn còn thưa thớt, chủ yếu là những
người lao động nghèo khổ. Ruộng lúa ở vùng này không nhiều, tập trung ở các
cánh đồng Phú Thạnh, Mỹ Xuân, phần lớn nằm trong tay các chủ đất như Hội đồng
Điền, Ba Chìa Khóa (Kamura). Ba Chìa Khóa là người Nhật, lấy vợ Việt Nam, có
thể lực hơn cả Hội đồng Điền. Vừa phát canh thu tô hơn 70 mẫu ruộng, Ba Chìa
Khóa còn là chủ nhà máy xay, chủ xe đò với những mối quan hệ trong giới tư bản
và với bộ máy cai trị thuộc địa. Ngay cả thực dân Pháp cũng không ngờ rằng, khi
Nhật làm đảo chính, Ba Chìa Khóa đã đóng lon quan ba và công khai với cái tên
Nhật Bản là Kamura. Dân Phú Thạnh và Mỹ Xuân phần lớn làm thuê cho Ba Chìa Khóa
và Hội đồng Điền với mức tô tức nặng lãi.
Dân Phước Hòa, Hội
Bài cũng không thoát khỏi cảnh nghèo khó vì phải làm những công việc nặng nhọc,
như đốn củi, hầm than, múc dầu chai, đánh bắt cá tôm mà thu nhập chẳng được là
bao. Muốn bán được về Sài Gòn phải thông qua các chủ vựa. Đầu tắt mặt tối quanh
năm mà nghèo đói đeo đẳng từ đời này qua đời khác. Lúc thất mùa, họ phải lên
rừng Giồng đào củ ăn thay cơm. Nhà cửa phần lớn là những túp lều dột nát, quần
áo rách rưới, hầu hết đều thất học. Cho đến nay, người dân Phước Hòa, Hội Bài
vẫn ghi nhớ và lưu truyền đến hậu thế những câu ca dao thấm đượm tình cảnh cùng
cực của người dân ở đây:
Cây ăn lưỡi búa đã
mòn,
Rừng thung (lũng)
hết củi, nồi còn hết cơm.
Được hội tụ từ
nhiều vùng đất nước, người dân vùng lộ 15 vốn giàu truyền thống yêu nước và
cách mạng, ngay từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nhân dân Tân Thành đã
sớm tiếp thu ảnh hưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 3 tháng 2 năm 1930,
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, chấm dứt thời kỳ bế tắc, khủng hoảng về đội ngũ
lãnh đạo, đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời là kết quả
của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước của nhân dân Việt Nam .
Sự ra đời của chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam ở Bà Rịa-Vũng Tàu nói chung và
vùng đất Tân Thành nói riêng cũng nằm trong quy luật chung đó.
Từ khi đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo phong trào cách mạng, một số cán bộ đảng viên
và quần chúng cách mạng ở nhiều nơi bị thực dân Pháp khủng bố đã tìm về vùng
đất thưa dân, trên có núi cao, rừng dày, lưới có sông rạch chằng chịt để sinh
sống và tạm tránh giặc. Nhân dân Mỹ Xuân đã cưu mang, che chở cho nhiều cán bộ
và quần chúng cách mạng, trong đó có ông Hứa Văn Thái, tham gia phong trào cách
mạng năm 1930 ở miền Tây, ông Nguyễn Văn Yến là dân trốn lính, bà Phan Thị Năm
(tức Vũ Thị Nhũ), Nguyễn Thị Kiềm, Hứa Thị Tới là những quần chúng cách mạng,
mang căn cước giả tới sinh sống. Sự xuất hiện của những người cộng sản trên
vùng đất Bà Rịa-Vũng Tàu đã ảnh hưởng tích cực đến nhận thức chính trị của nhân
dân vùng lộ 15.
Người cộng sản đầu
tiên người Bà Rịa là ông Dương Bạch Mai quê ngoại ở Long Mỹ, ông hoạt động
trong phong trào công nhân Pháp, được kết nạp vào Đảng cộng sản Pháp rồi được
giới thiệu đi học tại trường Đại học Phương Đông Liên Xô. Tốt nghiệp cuối năm
1930, ông trở về hoạt động ở Sài Gòn và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Bà Rịa
–Vũng Tàu. Học cùng khóa với Dương Bạch Mai ở Đại học Phương Đông (Liên Xô) còn
có Nguyễn Văn Phải (tức Nguyễn Thanh Phong), quê ở Long Điền. Khi khóa học chưa
kết thúc, do bị bệnh, Nguyễn Văn Phải về quê, mở tiệm thuốc Tây, bí mật truyền
bá chủ nghĩa Mác-Lênin.
Theo lịch sử huyện
Cần Giờ, đồng chí Huỳnh Văn Hát, sinh trưởng tại Cần Giờ là một thanh niên sớm
được giác ngộ. Từ năm 1929 đồng chí đã tham gia hoạt động trong Việt Nam thanh niên
cách mạng đồng chí Hội và bị địch bắt và đày đi Côn Đảo. Đồng chí Huỳnh Văn Hát
được giác ngộ tại nhà lao và trở thành người đảng viên cộng sản trong lao tù. Trước
đó, Huỳnh Văn Hát làm giao liên giữa Bà Rịa-Vũng Tàu và Sài Gòn – Biên Hòa.
Những chuyến ghe chở cá, buôn than củi từ Vũng Tàu, Cần Giờ ghé Thị Vải, đi
Biên Hòa, Sài Gòn là lộ trình giao liên quen thuộc thời đó.
Là một đầu cầu, cửa
ngõ trên con đường giao thông thủy bộ từ Bắc vào Nam, Bà Rịa-Vũng Tàu từng lưu
lại dấu chân của nhiều chiến sỹ cách mạng từ nhiều địa phương về hội tụ, gieo
những hạt giống cách mạng vào lòng những người dân lao khổ, trên một mảnh đất
đã từng đi đầu chiến đấu chống Pháp ở Nam Bộ. Sự nỗ lực của những người cộng
sản từ nhiều miền đất nước hội tụ về Bà Rịa-Vũng Tàu đã dẫn đến sự ra đời của
các tổ chức quần chúng hoạt động dưới ảnh hưởng của Đảng Cộng sản, trước hết là
tập hợp lực lượng, truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin.
Đồng chí Hồ Tri Tân
là người đầu tiên xây dựng những tổ chức cách mạnh trên vùng đất Bà Rịa-Vũng
Tàu. Hồ Tri Tân là liên lạc viên của tỉnh ủy Quảng Trị, bị thực dân Pháp khủng
bố đã lánh vào Bà Rịa làm ăn bằng nghề thợ mộc. Hồ Tri Tân cùng các anh Trần
Văn Ý ở Long Hương, Nguyễn Văn Lăng ở Phước Tỉnh nhóm họp tại chùa Châu Viên
vào mùa xuân năm 1932, gọi là Hội Châu Viên kết nghĩa, thề cùng nhau “hoạn nạn
tương cứu, sinh tử bất ly”, sau tập hợp thêm Trần Văn Hóa, Trần Văn Thiên, Hồ
Thị Trinh, Mười Còn, Thợ Quy, Lương Xưởng… là những người lao động có tinh thần
chống Pháp.
Bà Rịa-Vũng Tàu khi
ấy là một trong những trung tâm Phật giáo lớn ở miền Đông Nam bộ. Phong
trào “Chấn hưng Phật giáo” phát triển mạnh mẽ từ năm 1931 với sự ra đời của các
Hội nghiên cứu Phật học và các tạp chí Phật học ở khắp ba kỳ đã ảnh hưởng sâu
sắc đến giới tăng ni phật tử Bà Rịa. Thiên Thai cổ tự (Long Điền) là một trong
những trung tâm Phật giáo lớn ở Bà Rịa. Kế thừa tư tưởng yêu nước của Sư tổ Huệ
Đăng, các môn đệ Thiên Thai cổ tự sôi nổi tham gia cuộc tranh luận về Phật
giáo, hướng về quan điểm “Phật tự tâm” của Sư Thiện Chiếu (chùa Linh Sơn, Sài
Gòn) phê phán thuyết “Thượng đế toàn năng”, phê phán sự u mê về thiên đường hay
cõi Tây phương cực lạc; hướng Phật giáo nhập thế với mục đích cứu khổ cứu nạn
chúng sinh. Đó chính là khuynh hướng tích cực của phong trào Chấn hưng Phật
giáo.
Hồ Tri Tân tổ chức
Nhóm Nghiên cứu Phật giáo, một hình thức hoạt động công khai, vận động tăng ni
phật tử theo chánh đạo, chống tà thuyết, đồng thời là tấm bình phong hữu hiệu
để Hồ Tri Tân, bí mật hoạt động cộng sản. Lợi dụng ngày chủ nhật, những dịp lễ,
người đi chùa đông, Hồ Tri Tân và các thành viên Hội Châu Viên kết nghĩa trà
trộn trong các nhóm người đi chùa, lên núi, nghiên cứu tài liệu về Công Hội đỏ,
Nông Hội đỏ và tác phẩm Nhật ký chìm tàu của lãnh tụ Nguyễn Ai Quốc mà Hồ Tri
Tân mang từ Quảng Trị vào.
Đêm 13 tháng 7 năm
1933, Hội Châu Viên kết nghĩa đã treo được 6 lá cờ đỏ búa liềm tại 6 địa điểm
trong tỉnh, trong đó có một lá cờ treo tại địa phận xã Long Hương, trên hai
ngọn cây phi lao ngang lộ 15. nhiều truyền đơn ký tên Việt Nam cộng sản Đảng đã
được rải ở nhiều địa điểm từ Long Điền, Đất Đỏ đến Bà Rịa và quốc lộ 15 với các
nội dung: “Bỏ thuế thân; Giảm thuế điền thổ trạch; Chống tham quan ô lại; Công
nông binh liên hiệp lại.” Những người dân yêu nước trên địa bàn lộ 15 rất phấn
khởi, hy vọng đón chờ.
Cờ đỏ búa liềm và
truyền đơn cộng sản của Hội Châu Viên kết nghĩa chính là ngọn cờ tập hợp những
người cộng sản từ nhiều nơi về hoạt động tại Bà Rịa-Vũng Tàu. Cũng trong thời
gian này, Trần Văn Cừ (bí danh Ba Thẹo), một đảng viên cộng sản ở Cà Mau bị
khủng bố cũng đang hoạt động ở Bà Rịa. Từ Sài Gòn, Trần Văn Cừ về Mỹ Xuân, dạy
gồng (dạy võ) ở các làng dọc lộ 15, từ Phước Hòa, Phú Mỹ lên Bình Ba, về Bà
Rịa. Vùng đất thưa dân, giàu hào khí này đã dung nạp ông, và bằng nghề dạy
gồng, ông đã đi được nhiều nơi, gặp nhiều người, truyền bá tư tưởng chống thực
dân Pháp, tuyên truyền Chủ nghĩa Mác-Lênin. Một trong những học trò mà ông dạy
gồng và giác ngộ cách mạng là chị Nguyễn Thị Sanh, bí danh Sính (Sáu Mười Mẫu),
vốn là dân khai hoang ở làng Phước Hòa, sau lấy chồng là công nhân ở đồn điền
Trần Kim Tỵ (Bình Ba). Nguyễn Thị Sanh sau trở thành đảng viên cộng sản và hoạt
động rất tích cực.
Ở khu vực các chùa
trên núi Thị Vải còn có hai vợ chồng đồng chí Nguyễn Văn Long (vợ là chị Vân)
nương náu, tuyên truyền trong giới tăng ni phật tử. Nguyễn Văn Long là công
nhân của hãng xe buýt Sài Gòn, cả hai vợ chồng là hạt nhận lãnh đạo cuộc bãi
công của công nhân hãng xe buýt, đang bị thực dân Pháp truy lùng, tạm lánh về
Bà Rịa, nương náu ở Chùa Chân, Thị Vải. Nguyễn Văn Long cũng đang cùng với các
tăng ni phật tử các chùa ở khu vực núi Thị Vải tích cực tham gia cuộc tranh
luận về Phật giáo, ủng hộ quan điểm “Phật tự Tâm” của Sư Thiện Chiếu. Nguyễn
Văn Long đã gặp Trần Văn Cừ ở Thị Vải và sau đó, cả hai đã gặp Hồ Tri Tân trong
một số cuộc giao lưu tại chùa Châu Viên.
Sau một thời gian
tìm hiểu, biết rõ nhau, Hồ Tri Tân cùng Trần Văn Cừ, Nguyễn Văn Long đã tổ chức
cuộc họp tại nhà ông Trần Bá Thiên, xã Phước Hải (Đất Đỏ) vào tháng 2 năm 1934,
tuyên bố thành lập chi bộ 3 đảng viên: Trần Văn Cừ (bí thư), Nguyễn Văn Long,
Hồ Tri Tân. Nguyễn Văn Long phụ trách địa bàn lộ 15, tích cực tham gia vào Hội
phật học và phái Tịnh độ Cư sỹ, dựa vào triết lý Phật giáo để vạch rõ những bất
công trong xã hội mà nguồn gốc từ chế độ cai trị của thực dân Pháp xâm lược câu
kết với bọn phong kiến phản động. Trần Văn Cừ phụ trách khu vực lộ 2, vận động
công nhân cao su và nông dân vùng Tứ Long. Hồ Tri Tân vận động giới thợ mộc,
thợ hồ, quần chúng lao động và buôn bán ở Long Điền, Đất Đỏ.
Trong khoảng thời
gian từ giữa năm 1930 đến giữa tháng 7 năm 1933 hoạt động tuyên truyền chủ
nghĩa Mác-Lênin, vận động xây dựng chi bộ Đảng Cộng sản và thực hiện các hoạt
động đấu tranh chống thực dân Pháp diễn ra sôi nổi tại Bà Rịa. Sự hoạt động sôi
nổi của các chiến sĩ cách mạng Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Phải, Hồ Tri Tân và
các hội viên của hội Châu Viên kết nghĩa đã đưa đến kết quả tất yếu là sự ra
đời của chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của tỉnh Bà Rịa tại xã Phước Hải vào
tháng 2 năm 1934. hoạt động của các chiến sĩ cách mạng trên địa Bà Rịa và sự ra
đời của Chi bộ Phước Hải đã có ảnh hưởng đối với phong trào cách mạng
trên toàn tỉnh Bà Rịa bấy giờ./.
Bài 3
Cuộc khởi nghĩa Nam kỳ
__________________________
Trong những năm
1934-1935, trên địa bàn hai tỉnh Bà Rịa và ô Cấp (Cap Saint Jacques) đã diễn ra
nhiều cuộc đấu tranh chống lao dịch. Tù nhân ở nhà lao Bà Rịa và nhà lao Cấp
đấu tranh tuyệt thực với các yêu sách dân sinh dân chủ và đòi thả tù chính trị.
Các cuộc đấu tranh này đã cổ vũ tinh thần chống Pháp của nhân dân trong toàn
tỉnh. Lực lượng tù chính trị trong các nhà lao đã góp phần truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lênin và ảnh hưởng của Đảng Cộng sản bằng những cuộc đấu tranh với các yêu
sách chính trị, gây tiếng vang đối với quần chúng bên ngoài. Báo chí công khai
ở Sài Gòn đã đưa tin về các cuộc đấu tranh này. Nhiều báo cáo của mật thám Nam
Kỳ đã báo động về việc tuyên truyền cộng sản và đấu tranh của tù chính trị ở Bà
Rịa- ô Cấp.
Tháng 6 năm 1936,
Chính phủ phái tả của Mặt trận Bình dân lên cầm quyền ở Pháp. Ra đời trong cao
trào nhân dân đấu tranh chống phát xít, Chính phủ phái tả đã giải quyết một số
quyền lợi cho quần chúng lao động trong nước và các thuộc địa theo cương lĩnh
của Mặt trận nhân dân Pháp. Lợi dụng tình hình chính trị đang thuận lợi, ngày
26 tháng 7 năm 1936 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta quyết định thành
lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương và chủ trương chuyển hình
thức hoạt động bí mật sang hoạt động công khai, nửa hợp pháp nhằm tập hợp,
hướng dẫn quần chúng đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ, chống thực dân và
bè lũ tay sai.
Đảng đã đưa ra 12
yêu cầu đòi quyền tự do dân chủ cho các tầng lớp nhân dân lao động và tù chính
trị, kêu gọi cả nước thành lập Uỷ ban Hành động, tập trung lực lượng chuẩn bị
Đại hội Đông Dương. Hoạt động hợp pháp của một số đảng viên gắn bó với vùng đất
Bà Rịa đấu tranh đòi tự do dân chủ, cải tiến thể chế chính trị ở thuộc địa đã
ảnh hưởng tích cực đối với phong trào cách mạng ở Bà Rịa. Cuộc vận động Đông
Dương Đại hội khởi xướng ở Sài Gòn giữa năm 1936 đã nhanh chóng phát triển ở Bà
Rịa.
Hưởng ứng phong
trào Đông Dương đại hội do Đảng ta phát động, Ủy ban hành động tỉnh Bà Rịa được
thành lập do Hồ Tri Tân, đứng đầu, công khai vận động quần chúng nhân dân tập
hợp nguyện vọng, chuẩn bị cử đại biểu đưa lên phái đoàn thanh tra của Mặt trận
nhân dân Pháp sắp sang Đông Dương điều tra. Nhiều Uy ban hành động ở các làng
cũng được thành lập. Cùng với việc tập hợp nguyện vọng của các tầng lớp nhân
dân, Ủy ban hành động còn tích cực vận động nhân dân đấu tranh đòi dân sinh dân
chủ, đòi giảm thuế, nhất là thuế thân, thuế muối.
Xứ ủy Nam kỳ quan tâm
chỉ đạo phong trào, phân công các đồng chí đảng viên hoạt động công khai như
Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Lộng (tức Chùa). Phong trào đấu tranh công khai
thường xuyên theo dõi và chỉ đạo hoạt động của Ủy ban hành động Bà Rịa.
Ngày 2 tháng 9 năm
1936, theo sáng kiến của Hồ Tri Tân, Hội Lỗ Ban Tương tế được thành lập. Hội tổ
chức mỗi xã một phân hội hoạt động công khai. Hội Lỗ Ban Tương tế đã tổ chức
nhiều hoạt động đấu tranh, ảnh hưởng sâu sắc trong quần chúng nhân dân, nhất là
trong năm 1936, trong cao trào vận động thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương.
Đầu năm 1937, đồng
chí Trương Văn Bang vừa ra tù, được Liên Tỉnh ủy miền Đông cử về củng cố các cơ
sở Đảng ở Biên Hòa và Bà Rịa. Ban cán sự lâm thời Đảng bộ tỉnh Bà Rịa được
thành lập giữa năm 1937 do đồng chí Trương Văn Bang làm Bí thư. Đây là thời kỳ
phát triển mạnh mẽ cả về tổ chức Đảng, tổ chức quần chúng và phong trào đấu
tranh của quần chúng cách mạng trong tỉnh với hàng loạt Hội tương tế được thành
lập trong công nhân cao su, trong nông dân, ngư dân và các giới thợ thuyền,
tiểu thương cùng với hàng loạt cuộc đấu tranh của công nhân các xưởng cưa ở Bà
Rịa, phu hồ ở Long Hải, chị em buôn bán ở chợ Phước Hải, thợ thủ công làm gốm ở
Long Mỹ.
Tổ chức Đảng trong
tỉnh được củng cố, phát triển thêm một số chi bộ và kết nạp thêm nhiều đảng
viên. Từ chi bộ đầu tiên ở Phước Hải, trên địa bàn tỉnh Bà Rịa đã có thêm Chi
bộ Long Mỹ, Chi bộ liên sở Bình Ba-Xà Bang-Láng Lớn và một số đảng viên ở Long
Điền. Hầu hết các làng vùng Long Điền, Phước Lễ, khu Tứ Long, Khu vực lộ 2 đã
có các cơ sở Đảng và các Hội tương tế.
Điều đáng nói ở đây
là trong khi tập trung sức chỉ đạo phát triển tổ chức và phong trào trên các
khu vực trọng điểm như vùng công nhân cao su ở khu vực lộ 2 và vùng đông dân
Long Điền-Đất Đỏ, Đảng bộ chưa nỗ lực vươn tới địa bàn lộ 15, một khu vực tuy
thưa dân nhưng vị trí không kém phần quan trọng. Tài liệu của địch và của các
nhân chứng hoạt động trong thời kỳ này đều đề cập rất sơ sài, hầu như không
đáng kể về tổ chức, cán bộ cũng như phong trào cách mạng trên địa bàn lộ 15. về
cán bộ, trước đó đồng chí Nguyễn Văn Long được chi bộ Phước Hải phân công phụ
trách khu vực lộ 15 đã chuyển về Sài Gòn. Trong thời gian ấy, rất nhiều quần
chúng tích cực ở Đất Đỏ, Long Điền và trong công nhân cao su được kết nạp vào
Đảng, song chi bộ chưa phát triển được đảng viên nào trên địa bàn lộ 15.
Cho đến năm 1937,
khi Ban cán sự Đảng bộ tỉnh (tương đương Tỉnh uỷ lâm thời) được thành lập thì
phương hướng chỉ đạo trên địa bàn lộ 15 cũng chưa được xác định rõ. Đây cũng là
thời điểm bắt đầu khó khăn của phong trào. Tình hình chính trị ở Pháp ngày càng
xấu đi. Chủ nghĩa phát xít tiến công mạnh vào các lực lượng dân chủ.
Bọn phản động thuộc
địa Pháp ngày càng thắng thế. Chính quyền thuộc địa Đông Dương ra tay khủng bố.
Nhiều cán bộ hoạt động tích cực trong phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương ở
Bà Rịa phải chuyển vùng như Lê Quang Xô, Trần Văn Cừ, Hồ Ngọc Hạ, Trương Văn
Bang, Hồ Tri Tân bị trục xuất (tháng 3 năm 1938) rồi bị bắt đày ra Côn Đảo.
Dương Bạch Mai 5 năm tù, 10 năm biệt xứ, Hồ Hạ bị kết án 3 năm tù giam, 5 năm
biệt xứ. Hồ Thị Trinh, Hồ Thị Tường, Lê Văn Tập, Chín Thừa bị đày đi Bá Rá, Tà
Lài; Lê Minh Châu (Ba Cụt) bị đày đi Châu Đốc; Nguyễn Thị Sanh phải tạm lắng
một thời gian, bí mật củng cố các cơ sở trong công nhân cao su; Nguyễn Văn Phải
(Thanh Phong) tạm lánh về Cà Mau; Võ Văn Thiết, Lê Công Cẩn dựng lán trong rừng
Long Mỹ sống bất hợp pháp. Phong trào cách mạng ở Bà Rịa-Vũng Tàu đứng trước
những khó khăn thử thách ngày càng gay gắt.
Ngày 1 tháng 9 năm
1939 phát xít Đức tiến công Ba Lan, mở đầu cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2.
Bọn phản động thuộc địa tăng cường đàn áp và khủng bố. Về kinh tế, thực dân
Pháp tăng thuế, bắt dân đi làm xâu, bắt thanh niên vào lính (lính tập) đưa sang
Pháp làm bia đỡ đạn, chúng thi hành chính sách kinh tế thời chiến thẳng tay bóc
lột, tăng thuế, sung công tài sản của nhân dân nhằm vơ vét sức người, sức của
phục vụ cho chiến tranh đế quốc. Về chính trị, chúng tước đoạt các quyền tự do
dân chủ mà quần chúng nhân dân đã giành được trong cao trào Mặt trận dân chủ
Đông Dương, chúng bắt hàng loạt cán bộ, đảng viên cộng sản, cấm nhân dân hội
họp, cấm lưu hành sách báo tiến bộ, giải tán các hội ái hữu, nghiệp đoàn. Về
quân sự, chúng ra lệnh tổng động viên bắt lính, bắt phu xây dựng các công trình
quân sự phòng thủ.
Trước tình hình đó,
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VI (tháng 11 năm 1939) đã xác định rõ con
đường của cách mạng Việt Nam: “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương
không có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả
các ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng, để tranh lấy độc lập”. Nghị
quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (tháng 11 năm 1939) đánh dấu bước chuyển
biến quan trọng trong sự chỉ đạo chiến lược của Đảng ta, mở đầu cho một thời kỳ
mới, thời kỳ trực tiếp chuẩn bị lực lượng, tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính
quyền khi có thời cơ.
Tháng 6 năm 1940,
nước Pháp bại trận. Phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương. Bọn thực dân thuộc địa
vì để duy trì quyền lợi đã bạc nhược đầu hàng và cấu kết với phát xít Nhật.
Chúng tăng cường vơ vét lương thực, thực phẩm, bắt nhân dân ta phục dịch cho
chúng. Mâu thuẫn giữa nhân dân ta với thực dân, phát xít ngày càng gay gắt.
Trước tình hình đó Xứ uỷ Nam Kỳ chủ trương chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Công
tác binh vận được đẩy mạnh. Tiểu ban binh vận vùng 2 gồm Biên Hòa-Bà Rịa-Vũng
Tàu được Xứ ủy đặc biệt quan tâm, cử cán bộ xây dựng cơ sở trong anh em binh
lính, đẩy mạnh tuyên truyền, giác ngộ cách mạng.
Đêm 22 rạng ngày 23
tháng 11 năm 1940, cuộc khởi nghĩa đã nổ ra tại nhiều tỉnh ở Nam Kỳ. Tuy thất
bại, nhưng cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ đã gây một tiếng vang lớn, tác động mạnh mẽ
đến tinh thần yêu nước, quyết tâm giành độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam.
Mặc dù tại Bà Rịa-Vũng Tàu cuộc khởi nghĩa đã không nổ ra như những địa phương
khác ở Nam
kỳ, nhưng trong cuộc khủng bố trắng của thực dân Pháp, nhiều cán bộ, đảng viên
ở Bà Rịa đã bị bắt bớ, tù đày. Một số người phải tạm lánh đi nơi khác. Phong
trào cách mạng tiếp tục duy trì trong công nhân cao su, dưới hình thức đấu
tranh đòi dân sinh dân chủ.
Địa bàn Tân Thành
không có đồn điền cao su, nhưng một phần đất của đồn điền Bình Sơn, Long Thành
tiếp giáp với Tân Thành. Vì thế phong trào đấu tranh của công nhân cao su đã ít
nhiều ảnh hưởng trực tiếp đến Tân Thành. Ngày 29 tháng 12 năm 1940, dưới sự
lãnh đạo của các đảng viên cộng sản, hơn 1.000 công nhân cao su đấu tranh đòi
các yêu cầu dân sinh dân chủ. Cuộc đấu tranh cuối cùng đã thắng lợi, tác động
tích cực trong nhân dân. Sáng ngày 10 tháng 9 năm 1941, hơn 500 công nhân ở sở
Cuortenay đã tổ chức đình công, kéo về tỉnh lỵ Bà Rịa yêu cầu Tỉnh trưởng người
Pháp phải can thiệp, buộc chủ sở chấm dứt đánh đập, hành hạ công nhân. Cuộc đấu
tranh được nông dân các xã vùng ven Bà Rịa ủng hộ. Tỉnh trưởng Bà Rịa hứa can
thiệp với chủ sở bồi thường thiệt hại cho công nhân, chấm dứt tình trạng đánh
đập, cúp phạt, cung cấp đủ lương thực, thực phẩm, thuốc men cho công nhân…
Những người cao
niên ở Mỹ Xuân còn nhớ, sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (tháng 11 năm 1940), thực
dân Pháp đã bắt bớ nhiều người và đem chặt đầu ba người dân xã Mỹ Xuân tại
giếng ba miệng, vườn cao su của Xilake, gần chợ mới. Sự tàn ác của thực dân
Pháp không khuất phục được người dân Tân Thành mà trái lại, chúng chỉ chất chứa
thêm tội ác và hun đúc sâu thêm ý chí cách mạng của nhân dân.
Trong thời kỳ này,
một số quần chúng cách mạng ở các tỉnh miền Tây Nam bộ bị khủng bố vì liên quan
đến cuộc Khởi nghĩa Nam kỳ (tháng 11 năm 1940) cũng tìm về vùng đất Phước Hải,
Mỹ Xuân, Hội Bài sinh sống. Các lân ấp ở Hội Bài tụ tập ngày càng đông thêm,
qui tụ một lớp cư dân vốn giàu lòng yêu nước và có truyền thống đấu tranh cách
mạng. Nhân dân Phú Mỹ đến bây giờ còn nhắc tới cô Năm Chùa. Cô Năm Chùa trước
đó sinh sống tại Sài Gòn. Sau khi chồng qua đời, Cô cùng con trai về Phú Mỹ
sinh sống. Sau khởi nghĩa Nam
kỳ, lực lượng cách mạng rút vào hoạt động bí mật. Lương thực, thực phẩm, thuốc
men tiếp tế, phục vụ cho cách mạng hết sức thiếu thốn, khó khăn. Cô Năm đã về
Sài Gòn mua lương thực, thuốc men tiếp tế cho lực lượng cách mạng trong thời
gian khá dài. Con trai Cô, biệt danh là Hai Chúa tham gia kháng chiến, chuyên chở
gạo, thuốc phục vụ cho Chi đội 7. Trong một lần Hai Chúa bị địch phát hiện truy
đuổi. Chúng vào chùa Cô Năm lùng sục, đòi đốt chùa và bắt Cô Năm. Cô Năm đã nói
với địch bằng tiếng Pháp: “sinh con chớ bà không sinh lòng”. Bọn địch nghe có
lý nên không bắt Cô và đốt chùa. Một lần khác, Hai Chúa cũng bị Pháp phát hiện
và truy đuổi khi đang chở gạo tiếp tế cho cách mạng. Bất lực trước việc truy
bắt Hai Chúa, Pháp đã đốt cháy chùa và bắt Cô Năm về Bà Rịa giam 6 tháng. Sau
khi ra tù, Cô Năm lên núi Thị Vải tiếp tục con đường tu hành, tiếp tế cho cách
mạng. Về sau, Pháp phục kích, giết hại được Hai Chúa tại Phú Mỹ.
Một tấm gương khác
đó là chị Ba Lợi. Chị được xem là hoa khôi của Phú Mỹ. Chị mở nhà hàng, sòng
bạc, tập trung nhiều người đẹp dùng mỹ nhân kế, bắt và thủ tiêu nhiều sĩ quan
Pháp ở đồn Phú Mỹ tới đây ăn chơi. Chị đã hoạt động trong thời gian dài và hy
sinh cuộc đời thanh xuân của mình vì sự nghiệp cách mạng.
Sự hội tụ của những
người bị khủng bố sau Khởi nghĩa Nam kỳ về sinh sống tại Tân Thành và những tấm
gương yêu nước một lòng một dạ vì cách mạng đã tạo những tiền đề thuận lợi để
quân và dân Tân Thành phát huy mạnh mẽ truyền thống cách mạng trong Cách mạng
tháng tám 1945 cũng như trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ./.
Bài 4
Xây dựng lực lượng, khởi nghĩa giành chính quyền
________________________________
Tháng 8 năm 1942,
phát xít Nhật đã đổ bộ lên Phước Hải (nay thuộc huyện Long Đất) và Cầu Đá (Vũng
Tàu) rồi triển khai các điểm đóng quân, chốt giữ các vị trí quan trọng ở Bà Rịa
và Vũng Tàu. Các kho súng đạn của quân Pháp trên Núi Lớn, Núi Nhỏ đều bị quân
Nhật chiếm giữ. Chúng gấp rút củng cố hệ thống phòng thủ ở Vũng Tàu và Bà Rịa.
Bọn tay sai thân Nhật nổi lên, ra sức tuyên truyền thuyết “Đại Đông Á”, “đồng
văn đồng chủng”, tuyên bố “châu Á là khu vực thịnh vượng chung”, “châu Á của
người châu Á” và thành lập các tổ chức thân Nhật.
Những thủ đoạn mỵ
dân đó không che giấu được bộ mặt thật của phát xít xâm lược. Tình cảnh “một cổ
hai tròng” ngày càng đẩy nhân dân vào con đường bế tắc, bi đát: sản xuất ách
tắc, ngưng trệ, hàng hóa thiết yếu khan hiếm, đồng tiền mất giá, trộm cướp
hoành hành. Ruộng đất Nhật trưng dụng để trồng gai, bông vải phục vụ cho cuộc
chiến tranh xâm lược. Phát xít Nhật ra sức vơ vét nhân tài vật lực Đông Dương để
phục vụ cho cuộc chiến tranh xâm lược của chúng. Những vật dùng thiết yếu, từ
gạo muối cho đến diêm quẹt vô cùng khan hiếm. Cuộc sống của người dân vùng lộ
15 vốn đã thiếu đói, nay càng thiếu thốn hơn. Nhiều người dân phải dùng bao bố,
bao đệm thay quần áo, dùng dầu chai để thắp đèn vì không có dầu lửa. Mâu thuẫn
giữa nhân dân lao động với phát xít Nhật và thực dân Pháp càng thêm sâu
sắc.
Trong khi đó, máy
bay đồng minh thường xuyên oanh kích vào những nơi đóng quân của quân Nhật làm
cho tình hình càng thêm rối ren. Không khí chiến tranh bao trùm. Phát xít Nhật
ráo riết mộ phu, bắt xâu xây dựng các căn cứ quân sự, trong đó, công trình lớn
nhất là sân bay ở bến Gò Dầu (một vị trí rất thuận lợi vì gần đường thủy – nay
là ấp Phú Hà, thị trấn Phú Mỹ). Nhật trưng dụng dân các làng Phú Thạnh, Mỹ Xuân
phải đi làm công, xây dựng sân bay cho chúng.
Chiến tranh thế
giới lần thứ hai và chiến tranh Thái Bình Dương đã đẩy các mâu thuẫn giữa phe
phát xít và phe dân chủ, giữa Nhật và Pháp, giữa nhân dân ta với phát xít Nhật
và thực dân Pháp thêm sâu sắc, thúc đẩy tình thế cách mạng mau chín muồi. Trước
thời cơ cách mạng đang đến gần, từ ngày 25 đến 28/2/1943, Ban Thường vụ Trung
ương Đảng tổ chức Hội nghị chủ trương mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất, xúc
tiến chuẩn bị điều kiện và thực hiện khởi nghĩa vũ trang.
Mặc dù chịu nhiều
tổn thất vì sự khủng bố của thực dân Pháp, nhất là sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ
(tháng 11 năm 1940), phong trào cách mạng trên địa bàn Tân Thành từng bước phục
hồi và tiếp tục phát triển từ cuối năm 1944, đặc biệt từ sau khi Nhật đảo chính
Pháp. Hội truyền bá quốc ngữ được thành lập ở Bà Rịa và Vũng Tàu. Ở Tân Thành,
thực dân Pháp bắt nhiều thanh niên địa phương tham gia Hội Hướng đạo sinh do
chúng thành lập, nhằm tập và hát những bài ca ngợi Tổng thống Pháp. Nhưng ta đã
lợi dụng tổ chức này để tuyên truyền và hoạt động theo mục đích của cách mạng.
Các hội viên Hướng đạo sinh Tân Thành (chủ yếu là thầy giáo) tham gia tích cực
và mở được nhiều lớp xóa mù chữ, tuyên truyền văn nghệ, hướng về cội nguồn dân
tộc, tổ chứcdiễn thuyết, vận động đồng bào ủng hộ tiền mua sách cho những người
nghèo học chữ quốc ngữ. Thanh niên trí thức hăng hái tham gia truyền bá quốc
ngữ và tuyên truyền văn nghệ, phổ biến các bài hát, vở kịch có nội dung yêu
nước, khơi dậy lòng tự hào dân tộc. Nhiều khẩu hiệu như “Học truyền bá quốc ngữ
là bảo vệ quốc hồn, bảo tồn quốc tuý”, “đoàn kết trí thức với công nông” cổ vũ
cho phong trào truyền bá quốc ngữ…
Đầu năm 1945, Hồng
quân Liên Xô liên tiếp giành thắng lợi trên các chiến trường. Ở mặt trận Thái
Bình Dương, quân đội Nhật liên tiếp bị thất bại, tinh thần hoang mang. Trong
khi đó, quân Pháp âm mưu chờ đồng minh vào để ngoi đầu dậy khôi phục quyền
thống trị tại Đông Dương. Đêm 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính, bắt giam toàn
bộ quan quân Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Tại Bà Rịa và ô Cấp, lực lượng lính
đồn trú, cùng các quan chức Pháp đều bị bắt ngay trong đêm đảo chính.
Giữa lúc phát xít
Nhật đảo chính thực dân Pháp, Hội nghị mở rộng Ban Thường vụ Trung ương Đảng
họp tại Đình Bảng (Bắc Ninh) ngay trong đêm 9 tháng 3 năm 1945 đã chủ trương:
“Phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng
khởi nghĩa”. Ban Thường vụ Trung ương ra chỉ thị “Nhật, Pháp bắn nhau và hành
động của chúng ta” (12/3/1945) kịp thời chỉ đạo các Đảng bộ địa phương nỗ lực
chuẩn bị, chớp thời cơ giành chính quyền.
Sau ngày đảo chính,
Phát xít Nhật đã thành lập chính quyền tay sai thân Nhật tại Bà Rịa, đưa Lê
Thành Long, vốn mang quốc tịch Pháp và làm công chức cho Pháp đến chức Đốc Phủ
sứ, đã nghỉ hưu tại Phước Lễ, lên làm Tỉnh trưởng.
Về chính trị, Phát
xít Nhật gấp rút xây dựng bộ máy tay sai thân Nhật, tổ chức nhiều lớp học tiếng
Nhật, ra sức tuyên truyền thuyết “Đại Đông Á”, “đồng văn đồng chủng”, tuyên bố
“châu Á là khu vực thịnh vượng chung” và thành lập các tổ chức thân Nhật. Tỉnh
trưởng Lê Thành Long, trong các cuộc đón tiếp các phái đoàn Nhật cũng như phát
biểu với hương chức và dân chúng mỗi khi đi kinh lý các làng đều không ngớt lời
ca tụng sức mạnh của quân đội Thiên Hoàng với khả năng bách chiến của Hạm đội
TSUSHIMA trên biển Đông, ca tụng ân huệ của đất nước mặt trời mọc đã giải phóng
cho dân chúng Đông Dương khỏi ách thống trị của thực dân Pháp và kêu gọi dân
chúng phải hết lòng phục vụ, vì sự chiến tháng của quân đội Thiên Hoàng trong
cuộc chiến tranh này. Song những thủ đoạn mị dân của phát xít Nhật và tay sai
không thể che giấu được tội ác và bộ mặt xâm lược của chúng.
Về kinh tế, phát
xít Nhật ra sức vơ vét tài sản và công sức lao động của nhân dân để phục vụ
cuộc chiến tranh xâm lược. Trong một bản báo cáo dài mười một trang đánh máy,
được hoàn thành vào ngày ba mươi tháng tư năm 1945, tỉnh trưởng Lê Thành Long
đã báo cáo cho Thống đốc Minođa những thông tin chi tiết về tình hình kinh tế
tỉnh Bà Rịa, số liệu chi tiết về các khoản thu chi, số liệu các loại quỹ ở làng
xã, khả năng thu hoạch nông sản, về trữ lượng các nông sản chủ lực của tỉnh như
đậu tương, khoai mì, mía, hồ tiêu, thuốc lá, mè và đặc biệt là cà phê và bông
vải, những mặt hàng thiết yếu có thể phục vụ thiết thực cho nhu cầu của cuộc
chiến tranh. Bản báo cáo đã dành nhiều trang phân tích hệ thống tổ chức các đồn
điền ở Bà Rịa cũng như tầm quan trọng của các nguồn thu từ đồn điền đối với
chính quyền cũ mà ngày nay người Nhật cần phải nắm lấy.
Đương nhiên là
người Nhật rất quan tâm đến những thông tin này. Tại các đồn điền cao su, đồn
điền cà phê, ở vùng lộ 2, đồn điền mía ở khu vực lộ 15 cũng như nhà máy đường
Bậc Lở (Mỹ Xuân) bọn chủ Tây đều bị quân Nhật bắt giam hết, chúng giao đồn điền
cho một số cai ký thân Nhật quản lí. Các sở đóng cửa, công nhân thất nghiệp,
một số đi nơi khác tìm việc làm, số đông còn lại ở lại đồn điền hoặc vào bưng,
rẫy trồng trọt, chăn nuôi kiếm sống hoặc buộc phải đi xâu cho Nhật; một số khác
bị bắt đi vận tải lương thực, vận tải vũ khí phục vụ quân đội Nhật.
Một số sĩ quan Nhật
đã chiếm thêm đất, lập đồn điền. Cầm đầu nhóm sĩ quan chiếm đất lập đồn điền là
Ba Chìa Khóa (Kamura). Hắn vốn là một sĩ quan tình báo của Nhật trong vai người
đi buôn ve chai, lấy vợ người Việt rồi thành dân ngụ cư, bám chặt vùng đất Mỹ
Xuâb, một địa bàn chiến lược từ hàng chục năm trước. Đến khi Nhật đảo chính
Pháp hắn mới ra mặt, đóng lon quan ba, lấy tên Nhật (Kamura), trực tiếp tham
mưu cho quân Nhật xây dựng các tuyến phòng thủ, xây dựng sân bay Phú Mỹ và sắp
xếp bộ máy chính quyền tay sai thân Nhật. Ngoài hàng chục mẫu ruộng hắn đã tậu
từ nhiều năm trước, từ khi Nhật làm đảo chính, Kamura đã chiếm thêm hàng chục
mẫu lập đồn điền, trưng dụng nhân dân địa phương làm việc trong đồn điền của
hắn: làm đất, trồng cây, chăn nuôi gia súc. Đồn điền của Ba Chìa Khóa rộng lớn,
cùng với sự nổi tiếng giàu có là sự tàn ác và bóc lột nhân dân thậm tệ của hắn.
Cuộc sống của nhân dân Bà Rịa-Vũng Tàu nói chung và nhân dân các xã trên địa
bàn Tân Thành nói riêng càng thêm khó khăn. Một số người trước đây còn mơ hồ
tin theo luận điệu tuyên truyền nay càng hiểu rõ thêm dã tâm xâm lược của phát
xít Nhật.
Về mặt quân sự,
phát xít Nhật đẩy mạnh việc xây dựng sân bay Phú Mỹ cùng các công trình phòng
thủ ở Bà Rịa và Vũng Tàu, nhất là các công trình phòng thủ trên núi và tuyến
phòng thủ ven biển. Từ khi lật đổ thực dân Pháp độc quyền cai trị, phát xít
Nhật bắt chính quyền tay sai phải bắt xâu trong dân làm không công cho chúng.
Theo lệnh của quan Nhật, Tỉnh trưởng Lê Thành Long đốc thúc các Chánh tổng, bắt
Lý trưởng các làng phải đích thân điều động nhân dân đi phu, đào hầm hào, xây
dựng phòng tuyến quân sự.
Hội tề các làng
được lệnh phải cung cấp đủ người làm xâu, làm phu, bắt các làng phải trưng dựng
xe bò để chuyên chở đá làm sân bay cho chúng hàng tháng liền. Theo một báo cáo
của Tỉnh trưởng Lê Thành Long gửi Thống đốc Minođa, việc cung cấp dân phu theo
yêu cầu của các sỹ quan Nhật được đáp ứng thường xuyên. Các hương lý đã cung
cấp mỗi ngày từ 200-300 dân phu xây dựng các tuyến phòng thủ ven biển. Đó là
chưa kể hai công trình sửa chữa nâng cấp sân bay Baonan (Vũng Tàu) và xây dựng
sân bay Phú Mỹ.
Dưới sự chỉ huy của
tên đại úy Ôkina, lính Nhật khủng bố, đánh đập những người làm xâu hết sức dã
man, tàn bạo. Nhiều dân phu phải bỏ xác trong các cánh rừng Phú Mỹ. Đồng bào đã
tổ chức đấu tranh, viện lý do hết lương thực, yêu cầu cho đánh xe bò về lấy
lương thực rồi trốn luôn, không làm phu cho chúng nữa. Tất nhiên khi những
người này trốn thì lính Nhật lại bắt những dân phu khác thay thế.
Cảnh bắt lính, bắt
xâu, hà hiếp dân chúng, mổ bụng, giết người của bọn lính Nhật khiến nhân dân Bà
Rịa - Vũng Tàu sớm nhận ra bộ mặt thật của phát xít Nhật, cũng một lòng lang
sói như thực dân Pháp trước kia. Mâu thuẫn giữa nhân dân ta và phát xít Nhật
lên đến cực điểm. Từ giữa năm 1945, Nhật ra sức bắt thanh niên đi lính. Trước
tình hình đó thanh niên trong độ tuổi bị chúng bắt lính ở các xã trong huyện,
nhiều nhất là Phú Thạnh, Mỹ Xuân đã trốn vào rừng, sống bất hợp pháp, khi ấy
gọi là lực lượng chống phát xít. Sau Cách mạng tháng tám 1945, lực lượng này
gia nhập lực lượng vũ trang Bình Xuyên do Mai Văn Vĩnh làm Chi Đội trưởng.
Trên công trường
xây dựng sân bay, không ít cuộc phản kháng hành động quân phiệt của bọn sỹ quan
Nhật đã nổ ra. Bản báo cáo số 72 ngày 30/4/1945 gửi Shinohara, thanh tra hiến
binh và cảnh sát dân vụ Nhật Tỉnh trưởng Lê Thành Long đã dè dặt khi đề cập đến
những sự kiện này: “trong các làng xa xôi hẻo lánh, người dân quê còn ngại khi
thấy lính Nhật… Đã xảy ra trong dân chúng những sự ngộ nhận hết sức đáng tiếc,
và một số phần tử đã được phát hiện là đã gây rắc rối để thỏa mãn tư thù…”
Ngay khi Nhật đảo
chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương đã ra chỉ thị “Nhật, Pháp bắn nhau và hành
động của chúng ta” (12/3/1945) kịp thời chỉ đạo các Đảng bộ nỗ lực chuẩn bị
chớp thời cơ giành chính quyền. Cao trào vận động tiền khởi nghĩa diễn ra sôi
nổi. Khắp nơi trong nước, các Đảng bộ và quần chúng nhân dân hăng hái chuẩn bị
lật đổ ách thống trị hơn 80 năm của thực dân Pháp.
Tháng 5 năm
1945, tổ chức Thanh niên Tiền phong do Xứ ủy chỉ đạo đã được thành lập tại Sài
Gòn. Cũng thời gian này, tổ chức Thanh niên Tiền phong tỉnh Bà Rịa được thành
lập. Ban thủ lĩnh gồm Dương Văn Xá, Nguyễn Văn Phải, Lưu Văn Vầy. Đến tháng 8
năm 1945, hầu hết các xã trong tỉnh Bà Rịa đều thành lập Thanh niên Tiền phong.
Trong những ngày chuẩn bị khởi nghĩa, thanh niên Phú Thạnh, Mỹ Xuân đã tạo điều
kiện và tham gia cùng Thanh niên Tiền phong tỉnh vận động binh lính người Việt
trong quân đội Nhật. Lực lượng Thanh niên Tiền phong Mỹ Xuân bấy giờ gồm các
đồng chí Bùi Văn Chín (Chín Đỏ), Tám Lượng, Nguyễn Văn Long, Nguyễn Văn Cường
(Mười Cường), Nguyễn Hào… Lực lượng Thanh niên Tiền phong Mỹ Xuân lấy đình Phú
Thạnh làm nơi liên lạc, trao đổi kế hoạch đánh địch. Họ thường tập họp tại đây
để luyện tập võ nghệ. Lực lượng Thanh niên Tiền phong Tân Thành còn mời cả võ
sư người Hoa dạy quyền. Đồng chí Tư Đào là một thành viên của nhóm đã dạy múa
roi cho anh em.
Trong những ngày
tiền khởi nghĩa, thanh niên Phú Thạnh, Mỹ Xuân đã tổ chức đột nhập sân bay, lấy
được nhiều vũ khí, trong đó có cả trung liên, đại liên, 12,7 ly, trang bị cho
Thanh niên Tiền phong tỉnh và lực lượng vũ trang tỉnh sau này.
Trong một trận đánh
Pháp, anh Ba Nhỏ (thành viên Thanh niên Tiền phong) đã hy sinh tại trạm Kiểm
lâm Thị Vải. Anh là liệt sĩ đầu tiên của huyện Tân Thành.
Ngày 15/8/1945,
Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng quân Đồng Minh. Trung ương Đảng quyết định phát
động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Quốc dân Đại hội họp ở
Tân Trào đã bầu ra ủy ban khởi nghĩa toàn quốc do Cụ Hồ Chí Minh đứng đầu. Tình
thế cách mạng có nhiều chuyển biến mau lẹ. Tại Bà Rịa, lính Nhật chỉ còn biết
co cụm trong các trại tập trung. Từ ngày 17 đến ngày 20/8/1945, Xứ uỷ Nam kỳ đã tổ
chức Hội nghị mở rộng tại Chợ Đêm. Hội nghị quyết định chọn Tân An tổ chức khởi
nghĩa thí điểm vào ngày 23/8/1945, đồng thời kêu gọi các tỉnh thành huy động,
chuẩn bị giành chính quyền. Hội nghị cử hai đồng chí Huỳnh Văn Hớn và Dương
Bạch Mai về Bà Rịa và Vũng Tàu chỉ đạo khởi nghĩa cướp chính quyền.
Ngày 23/8/1945, Chi
bộ Đảng Bà Rịa đã tổ chức họp mở rộng, quyết định dùng lực lượng Thanh niên
Tiền phong tất cả các xã trong tỉnh, trang bị vũ khí thô sơ chủ yếu là tầm vông
vạt nhọn cùng nhân dân trong toàn tỉnh khởi nghĩa cướp chính quyền về tay nhân dân
trong ngày 25/8/1945. Ủy ban khởi nghĩa tỉnh được thành lập gồm các đồng chí
chủ chốt trong chi bộ và Thủ lĩnh Thanh niên Tiền phong của tỉnh.
Chấp hành chỉ thị
của Xứ ủy, Tổng bộ Thanh niên Tiền phong và chỉ đạo của Chi bộ Bà Rịa, nhân dân
các xã từ Bắc đến Nam lộ 15 mà nòng cốt là Thanh niên Tiền phong tích cực chuẩn
bị điều kiện để cướp chính quyền. Thanh niên Tiền phong các xã được tổ chức như
sau: mỗi xã tổ chức một đội, có Đoàn trưởng, Đoàn phó chỉ huy, quân số từ 3 đến
50 người, lứa tuổi 18 đến 50 tuổi, mỗi ấp tổ chức ra Tráng trưởng, Tráng phó.
Thanh niên Tiền phong Mỹ Xuân do các ông Bùi Văn Chính (Chín Đỏ), Nguyễn Văn
Long, Huỳnh Văn Ngà phụ trách.
Thanh niên Tiền
phong Phú Thạnh do Nguyễn Văn Cúc là đoàn trưởng. Thanh niên Tiền phong xã Hội
Bài do ông Bùi Văn Hoa là đoàn trưởng. Thanh niên Tiền phong xã Bàn Thạch do
ông Đặng Văn Điền là đoàn trưởng. Xã Hội Bài khi ấy gồm ba làng: Hội Bài A, Hội
Bài B và Hội Thạnh; ông Trương Văn Tới phụ trách Thanh niên Tiền phong làng Hội
Bài B; ông Phạm Văn Dy cùng người cháu là Phạm Văn Tụi phụ trách Thanh niên
Tiền phong làng Hội Thạnh; ông Bùi Văn Hoa phụ trách Thanh niên Tiền phong làng
Hội Bài A và phụ trách chung cả ba làng. Lực lượng Thanh niên Tiền phong các xã
vùng lộ 15 tích cực chuẩn bị, sẵn sàng xuống đường tham gia giành chính quyền ở
tỉnh lỵ Bà Rịa…
Trước ngày cướp
chính quyền (25/8/1945), lực lượng cách mạng các xã Phú Thạnh và Mỹ Xuân đã đột
nhập kho vũ khí của Nhật, trang bị được một số súng bộ binh. Ngày 25/8/1945
chính quyền xã Phước Hoà đã tổ chức lực lượng Thanh niên Tiền phong và nhân dân
trong xã gần 150 người chia thành hai cánh, một cánh theo lộ 15, cùng với xã
phụ cận cùng tiến về thị xã Bà Rịa cướp chính quyền về tay nhân dân ta.
Theo sự chỉ đạo của
Ủy ban khởi nghĩa, tất cả các đoàn phải có mặt tại nhà tròn Bà Rịa trước 7 giờ
sáng ngày 25/8/1945. các đoàn của xã Mỹ Xuân, Phú Thạnh đã lên đường từ chiều
hôm trước, xuống hội quân với Thanh niên Tiền phong các xã Hội Bài, Phước Hòa
nhập thành đoàn kéo về Bà Rịa. Đồng bào dân tộc Châuro Hắc Dịch với hơn 100
người đóng khố, vai mang cung nỏ cùng tiến về Bà Rịa. Thanh niên Tiền phong
nhiều lân ấp ở khu vực Rừng Sác (Hội Bài) tổ chức ghe theo sông rạch, hội quân
cùng Thanh niên Tiền phong vùng Bà Trao-Núi Nứa ngược sông dinh vào Phước Lễ.
Rạng sáng ngày
25/8/1945, hơn một vạn người đủ các lứa tuổi, đủ mọi giai tầng xã hội như dòng
thác đổ về khu vực Nhà tròn Bà Rịa. Khẩu hiệu, cờ đỏ sao vàng bay rợp trời. Các
đoàn quân đều mang theo vũ khí giáo mác, cung tên, tầm vông vạt nhọn. Tiếng hát
rạo rực khí thế cách mạng vang lên từ các đoàn người. Tất cả tạo nên bức tranh
sống động, hào hùng có một không hai trong lịch sử vùng đất này. Sau cuộc mít
tinh, Thanh niên Tiền phong dẫn đầu các đoàn tuần hành quanh tỉnh lỵ, rồi tỏa
về từng cơ sở giành chính quyền. Bộ máy tề xã bị lật đổ hoàn toàn. Chính quyền
nhân dân tại các xã được thiết lập. Ngày 25/8/1945 mãi mãi đi vào lịch sử quê
hương Tân Thành nói riêng và Bà Rịa-Vũng Tàu nói chung như một dấu son chói
lọi. Cùng với nhân dân các địa phương khác, nhân dân Tân Thành đã hoàn thành
trọn vẹn việc giành chính quyền về tay nhân dân tại địa phương mình, đồng thời
đã góp phần tích cực giành chính quyền tại tỉnh lỵ. Nhân dân Tân Thành đã góp
phần thành công trọn vẹn của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ngày 25 tháng 8
năm 1945./.
Bà Rịa - Vũng Tàu những ngày Tháng Tám năm 1945
Tháng Tám năm 1945,
cũng như các địa phương trong cả nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Bà
Rịa – Vũng Tàu đã vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền. Trong những ngày tháng
hào hùng ấy, khắp nơi trên địa bàn tỉnh, đâu đâu cũng tràn đầy khí thế cách
mạng sục sôi và dâng trào niềm vui, hạnh phúc chào đón nước nhà được độc lập.
Giữa tháng 8-1945,
tình hình cách mạng trong nước chuyển biến mau lẹ sau khi Nhật Hoàng tuyên bố
đầu hàng quân đồng minh. Sau hội nghị Xứ ủy Nam kỳ mở rộng (từ ngày 17 đến
20-8), hai đồng chí Dương Bạch Mai và Huỳnh Văn Hớn được phân công về Bà Rịa
truyền đạt nghị quyết của Xứ ủy; chuẩn bị lực lượng giành chính quyền ở Sài Gòn
và các tỉnh Nam bộ. Ngày 23-8-1945, chi bộ Đảng Bà Rịa họp tại Long Điền quyết
định sử dụng lực lượng Thanh niên Tiền phong làm nòng cốt, huy động nhân dân
toàn tỉnh về thị xã Bà Rịa giành chính quyền vào ngày 25-8-1945.
Đêm 24-8, cờ đỏ sao
vàng đã được anh Trần Ngọc Anh treo trên tháp nước tại trung tâm thị xã Bà Rịa.
Ủy ban khởi nghĩa đã thuyết phục được tỉnh trưởng Lê Thành Long đồng ý bàn giao
chính quyền cho cách mạng, đồng thời cử anh Lưu Văn Vây đến gặp Satô, chỉ huy
quân Nhật ở Bà Rịa, để thông báo và yêu cầu quân Nhật không can thiệp vào công
việc nội bộ của người Việt Nam.
Sáng sớm 25-8, hàng
vạn người dân Bà Rịa từ mọi nẻo đường trong tỉnh rầm rập kéo về thị xã, khu vực
quanh Nhà Tròn. Cờ đỏ sao vàng, biểu tượng của nền độc lập dân tộc tung bay
trên tháp nước làm nức lòng dân. Tỉnh trưởng Lê Thành Long chính thức bàn giao
chính quyền cho cách mạng. Cuộc mít tinh kết thúc, đoàn người đi tuần hành
quanh tỉnh lỵ, hô vang khẩu hiệu “Việt Nam độc lập muôn năm”, “Mặt trận Việt
Minh muôn năm”… và sau đó kéo về địa phương mình để giành chính quyền ở cơ sở.
Tại Vũng Tàu, chiều
ngày 24-8-1945, nhóm Việt Minh Vũng Tàu gồm 10 đồng chí lên Sài Gòn để dự mít
tinh vào sáng ngày 25-8. Sau đó, đoàn Việt Minh Vũng Tàu cùng đồng chí Nguyễn
Lộc- phái viên quân sự của Xứ ủy- nhận nhiệm vụ trở về cùng nhân dân giành
chính quyền ở Vũng Tàu.
Đêm 25-8-1945, tại
nhà vợ chồng bà Hồ Thị Khuyên - Huỳnh Văn Nhung dưới chân Núi Lớn (nay là khu
vực phường 6, TP. Vũng Tàu), cơ sở Việt Minh Vũng Tàu đã thành lập Ủy ban khởi
nghĩa và quyết định xây dựng lực lượng vũ trang, cảm tử quân cách mạng- chuẩn
bị cho cuộc nổi dậy giành chính quyền ngày 28-8-1945. Ngày 26-8, đội cảm tử
quân được thành lập gồm 40 chiến sĩ dưới sự chỉ huy của đồng chí Lê Đình Y. Lực
lượng vũ trang đầu tiên của Vũng Tàu được trang bị 22 súng trường, 3 khẩu súng
lục, còn lại kiếm, mã tấu, lưỡi lê. Ngày 27-8, Ủy ban khởi nghĩa đến dinh Tỉnh
trưởng yêu cầu Tỉnh trưởng Lâm Văn Huê từ chức, giao chính quyền cho cách mạng.
Ngày 28-8, cả Vũng
Tàu rợp bóng cờ đỏ sao vàng. Từ sáng sớm, đông đảo quần chúng nhân dân tham gia
đoàn biểu tình, rầm rộ tiến vào sân vận động Lam Sơn dự mít tinh do Việt Minh
tổ chức. Đoàn biểu tình được lực lượng cảm tử quân và lực lượng Thanh niên Tiền
phong đi đầu bảo vệ. Đồng chí Lê Đình Y thay mặt Ủy ban khởi nghĩa đọc lời kêu
gọi khởi nghĩa của Tổng bộ Việt Minh. Tiếp theo đó, đồng chí Dương Bạch Mai,
đại diện Xứ ủy Nam kỳ phát biểu và long trọng tuyên bố: “Từ giờ phút này, chính
quyền đã thuộc về nhân dân Vũng Tàu”. Cả sân vận động vang dậy tiếng hoan hô:
“Việt Nam độc lập muôn năm!”
Bài 6
Các đoàn thể cứu quốc, tích cực chuẩn bị kháng chiến
chống Pháp
_____________________________________
Hội nghị Xứ uỷ mở
rộng ngày 10 tháng 12 năm 1945 tại Đức Hòa (Long An) đã quyết định chia Nam Bộ
thành ba khu: Khu 7, Khu 8 và Khu 9. Khu 7 gồm thành phố Sài Gòn và các tỉnh
Chợ Lớn, Gia Định, Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Bà Rịa. Tỉnh Cap Saints
Jacque (Vũng Tàu) được sáp nhập vào Bà Rịa. Tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu được chia làm
bốn quận: Long Điền, Đất Đỏ, Cơ Trạch và Vũng Tàu. Các xã thuộc khu vực nam - bắc
lộ 15 thuộc quận Vũng Tàu.
Ủy ban nhân dân
quận Vũng Tàu đồng chí Trương Minh Luân làm Chủ tịch, Trần Đình Chi uỷ viên thư
ký. Mai Thanh Quế phụ trách Quốc gia tự vệ cuộc (tiền thân của lực lượng công
an nhân dân), đồng chí Thời ủy viên quân sự, Lê Đình Y chủ nhiệm Việt Minh.
Đồng chí Trương
Minh Luân, Chủ tịch quận trực tiếp về chỉ đạo củng cố chính quyền các xã khu
vực lộ 15. Quận Vũng Tàu khi đó có các xã: Thắng Nhất, Thắng Nhì, Thắng Tam, Bà
Trao, Núi Nứa, Long Hương, Long Hoà (trước là ấp Tắc Moi thuộc Long Hương),
Phước Hoà, Hội Bài A, Hội Bài B, Hội Thạnh, Bàn Thạch, Phú Mỹ, Thạnh An, trong
đó có các xã Long Hòa, Phước Hòa, Hội Bài A, Hội Bài B, Hội Thạnh, Bàn Thạch,
Phú Mỹ nay thuộc huyện Tân Thành. Xã Hắc Dịch (bao gồm cả các xã Châu Pha, Sông
Xoài và một phần xã Tóc Tiên ngày nay) thuộc huyện Long Điền.
Khu bộ trưởng
Nguyễn Bình đã chỉ định đồng chí Lương Văn Trọng làm Ủy viên quân sự tỉnh Bà
Rịa. Các lực lượng cộng hòa vệ binh và đội cảm tử quân ở Vũng Tàu được lệnh tập
trung về Bà Rịa, sáp nhập với lực lượng vũ trang Bà Rịa, đổi tên thành Giải
phóng quân. Lực lượng Giải phóng quân của tỉnh do Nguyễn Đăng Khoa, Nguyễn Hoài
Đức và Đinh Công Hưng chỉ huy (12 tiểu đội) rải quân phòng thủ từ Long Lập (nay
là Long Phước) qua Long Kiên (nay là Hòa Long) lên Phước Lễ, Long Hương, Phước
Hòa.
Sau khi ổn định bộ
máy, Trịnh Ngọc Hiền và Phan Đình Tân ra mặt chống phá cách mạng. Chúng ra lệnh
buộc Ủy ban hành chính phải giao nộp hết vàng bạc và tất cả của cải đã vận động
nhân dân đóng góp để chúng quản lý và nuôi quân. Trịnh Ngọc Hiền và Phan Đình
Tân bí mật tổ chức truy lùng cán bộ Việt Minh thủ tiêu đảng viên cộng sản. Đối
với nhân dân thì chúng ra mặt cướp bóc trâu bò, lúa gạo, tiền bạc với danh
nghĩa là trưng mua bằng giấy viết tay; bắt phụ nữ có nhan sắc đến phục vụ tại
Tổng hành dinh, phao tin Việt Minh là phản động.
Do có âm mưu tạo
phản nên nhân dịp Đảng ta tuyên bố tự giải tán, Trịnh Ngọc Hiền và Phan Đình
Tân ra lệnh truy lùng các cán bộ Việt Minh; tổ chức thủ tiêu các Đảng viên cộng
sản. Chúng cướp trâu bò, tiền bạc, lúa gạo của dân một cách ngang ngược và chỉ
trao cho dân một tờ giấy biên nhận viết tay; dựng chuyện vu cáo cán bộ Việt
Minh là phản động để hạ uy tín của Cách mạng. Không đạt yêu sách, chúng tiếp
tục gây sức ép đối với chính quyền và khủng bố các đảng viên cộng sản. Tân
–Hiền yêu cầu Ủy ban hành chính phải tổ chức ra một Ủy ban chuyên cung cấp
lương thực thực phẩm cho chúng và giao nộp toàn bộ vũ khí của lực lượng Quốc
gia Tự vệ Cuộc và vũ khí của dân quân tự vệ các xã.
Lực lượng thân binh
Tân –Hiền ngày càng ra mặt chống phá cách mạng. Được tin Đảng cộng sản Đông
Dương tự giải tán, Trịnh Ngọc Hiền và Phan Đình Tân lấn tới, bắt giam và thủ
tiêu đồng chí Đoàn Thuật, cán bộ Quốc gia Tự vệ Cuộc thị xã Bà Rịa; bắt ủy
trưởng quân sự Dương Văn Xá và ủy viên tài chính Nguyễn Văn Phải giam tại Sở
Bàu Lùng, bao vây lục soát, nhà đồng chí Nguyễn Văn Phải ở Long Điền, bắt giam
và định thủ tiêu đồng chí Trần Xuân Độ. Các lực lượng du kích quân, tự vệ chiến
đấu, Quốc gia Tự vệ Cuộc đã phải đấu tranh rất kiên quyết, ngăn chặn hành động
chống phá của Tân-Hiền, giải thoát cho các đồng chí Dương Văn Xá, Nguyễn Văn
Phải, Trần Xuân Độ. Tình hình ở Bà Rịa, Long Điền, Đất Đỏ rất căng thẳng, xung
đột tiếp theo có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, trên địa bàn lộ 15,
Trịnh Ngọc Hiền và Phan Đình Tân không khống chế được. Các cuộc hành quân của
Trịnh Ngọc Hiền và Phan Đình Tân đều bị lực lượng Quốc gia Tự vệ Cuộc chặn đứng
tại cầu Thủ Lựu.
Sau vụ xung đột
này, Xứ ủy cử đồng chí Phạm Ngọc Thạch về triệu tập hội nghị liên tịch, giải
quyết vụ Tân –Hiền (12/1946) và tiếp đó, đặc phái viên của Chính phủ ở Nam
Trung bộ và Nam bộ Lê Văn Hiến đã phải trực tiếp can thiệp với sự tham gia của
Ủy viên quân sự tối cao của Chính phủ tại miền Nam Đàm Minh Viễn, Thanh tra
chính trị miền Đông Nam Bộ Dương Bạch Mai để ổn định tình hình ở Bà Rịa-Vũng
Tàu.
Ủy ban hành chính
tỉnh Bà Rịa hầu như bị tê liệt sau hàng loạt vụ xung đột với Tân –Hiền. Một số
Ủy viên Ủy ban đã bị thương hoặc lánh đi nơi khác. Chủ tịch Lê Văn Huề chuẩn bị
ghe đưa vợ con trốn chạy. Trên địa bàn tỉnh Bà Rịa lúc ấy còn có lực lượng vũ
trang của công an tỉnh mang tên Quốc gia Tự vệ Cuộc do đồng chí Phan Kim Chung
phụ trách. Bên cạnh đó còn có một bộ phận Bộ đội Nguyễn Minh Châu (Năm Ngà). Bộ
đội Nguyễn Minh Châu khi vỡ Mặt trận Thị Nghè (Sài Gòn) thì rút quân ra miền
Trung, được Ủy ban hánh chính miền Nam điều trở lại bám chiến trường
Bà Rịa.
Đồng chí Dương Bạch
Mai, Thanh tra chính trị miền Đông Nam Bộ trong đợt về công tác tại Bà Rịa đã
quyết định sáp nhập một bộ phận Bộ đội vệ binh (do Phạm Văn Tỷ phụ trách) vào
Bộ đội Năm Châu; bộ phận còn lại củng cố thành Quốc vệ đội trực thuộc Quốc gia
tự vệ Cuộc do Phan Kim Chung phụ trách; phân chia lại khu vực đóng quân và hoạt
động: lực lượng vũ trang của Trịnh Ngọc Hiền và Phan Đình Tân (Cộng hoà vệ
binh) phụ trách địa bàn lộ 23, từ cầu Thủ Lựu về Long Điền, Đất Đỏ; Bộ dội Năm
Châu và Quốc vệ đội bảo vệ địa bàn từ cầu Thủ Lựu về Bà Rịa, khu vực Tứ Long và
lộ 2, lộ 15.
Các lực lượng Quốc
gia Tự vệ cuộc, dân quân tự vệ ở Bà Rịa cũng như thị xã Vũng Tàu không ngừng
tuần tra, canh gác dọc tuyến bờ biển, Quốc lộ 15 và liên tỉnh lộ 2, con đường
huyết mạch từ Sài Gòn, Biên Hòa về Bà Rịa –Vũng Tàu, sẵn sàng chặn đánh
thực dân Pháp khi chúng trở lại.
Cuối năm 1946, Đội
tuyên truyền xung phong lộ 15 tích cực tuyên truyền cho công tác chuẩn bị bầu
cử quốc hội (12/1946). Danh sách 4 ứng cử viên Đại biểu Quốc hội Việt Nam của tỉnh Bà
Rịa đã đăng ký được niêm yết ở các điểm bầu cử của mỗi xã. Đó là:
- Ông Dương Bạch Mai, nhà hoạt động cách mạng quê ở Long Mỹ;
- Ông Cảnh, kỹ sư lâm nghiệp, trưởng ủy thủy lâm tỉnh Bà Rịa;
- Ông Trương Văn Khâm, quê ở Đất Đỏ, nông dân tiến bộ;
- Ông Bùi Văn Khôi, chủ doanh nghiệp.
Ông Dương Bạch Mai,
người trí thức cách mạng được tín nhiệm với đại đa số phiếu bầu, đắc cử đại
biểu Quốc hội Khóa I nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa trong cuộc bầu cử ngày 6 tháng 1 năm 1946.
Cuộc bầu cử được sự
lãnh đạo của chính quyền các xã và sự hưởng ứng của các tầng lớp nhân dân đã
tiến hành nhanh gọn, đúng pháp luật, trong an ninh và trật tự khá tốt. Các
thùng phiếu đều có có tổ phụ trách, được theo các lớp tập huấn của đội tuyên
truyền xung phong khu vực lộ 15. đó là một ngày hội lớn biểu thị sức mạnh đoàn
kết và quyết tâm làm chủ đất nước của quân và dân Bà Rịa-Vũng Tàu. Cuộc bầu cử
có ý nghĩa giáo dục trách nhiệm và quyền lợi của công dân, với giác ngộ về ý
thức dân chủ thực sự trong xã hội mới, có tác dụng rất lớn trong đời sống tinh
thần của nhân dân, trong bối cảnh thực dân Pháp đang mở rộng cuộc chiến tranh
xâm lược.
Ngày 25 và 26 tháng
1 năm 1946, thực dân Pháp chiếm Xuân Lộc (quốc lộ 1) và Long Thành (quốc lộ
15). Không khí kháng chiến chống thực dân Pháp đã sôi động trong cả tỉnh. Theo
chỉ đạo của Ủy ban hành chính tỉnh, phần lớn nhân dân các xã vùng lộ 15 đều sẵn
sàng “tiêu thổ kháng chiến”, bất hợp tác với thực dân Pháp.
Sáng 9 tháng 2 năm
1946, quân Pháp chia làm hai cánh, một cánh quân theo quốc lộ 15 từ Long Thành
tiến xuống, cánh quân thứ hai từ Xuân Lộc theo liên tỉnh lộ số 2 tiến về Bà
Rịa.
Trước đó, ngày 7
tháng 2 năm 1946, đồng chí Nguyễn Minh Châu đến đàm phán với chỉ huy đơn vị
Nhật còn lại trên địa bàn, đề nghị chúng trao vũ khí cho ta, thay vì để quân
Đồng Minh vào giải giáp. Bọn Nhật cũng biết quân Pháp và Đồng Minh đang sắp
đánh xuống Bà Rịa nên tìm cách hoãn binh, không trao vũ khí cho ta.
Nắm được kế hoạch
thực dân Pháp đánh xuống Bà Rịa, Bộ đội Nam Tiến, chia đơn vị thành hai bộ
phận: bộ phận thứ nhất do đồng chí Nguyễn Minh Châu chỉ huy bố trí quân trên lộ
15, chặn đánh quân Nhật từ Phú Mỹ rút về Vũng Tàu, tước được một số vũ khí, sau
đó rút quân về đóng ở khu vực nhà máy nước. Mờ sáng hôm sau, bị địch tập kích
một số đồng chí hy sinh, trong đó có một đồng chí phân đội trưởng mới hành quân
từ Bắc vào. Đơn vị phải rút về Long Phước. Bộ phận thứ hai do Phạm Văn Tỷ chỉ
huy chặn đánh địch ở Núi Đất, Sông Cầu rồi rút về Long Tân.
Một bộ phận của
Cộng hòa vệ binh tỉnh (6 tiểu đội) do Đinh Công Hưng là chỉ huy trưởng, đồng
chí Nguyễn Hoài Đức là Chỉ huy phó bố trí tại Phước Hòa chặn đánh địch trên lộ
15, nhưng do vũ khí thô sơ và trình độ tác chiến còn hạn chế nên không ngăn
được quân địch. Đồng chí Đinh Công Hưng bị thương, được đồng bào Phước Hoà đưa
về Hắc Dịch săn sóc. Phân đội của Nguyễn Hoài Đức rút quân qua Hội Bài về Bà
Trao-Núi Nứa củng cố lực lượng. Lực lượng vũ trang do Tân –Hiền cầm đầu chưa
đánh trận nào đã rút chạy về Bình Thuận.
Theo sự chỉ đạo của
đồng chí Trần Xuân Độ, đồng chí Hồ Tri Tân huy động một bộ phận tự vệ chiến đấu
quân ở Bà Rịa, Long Điền lên Phú Mỹ, Phước Hòa phối hợp với Cộng hòa Vệ binh
chặn đánh địch, song do trang bị vũ khí quá thô sơ, trong tình thế lực lượng vũ
trang tỉnh đánh không lại địch nên các đội tự vệ chiến đấu quân cũng đành rút
lui.
Sau hàng loạt các
cuộc hành quân khủng bố, thực dân Pháp đóng đồn bót tại các thị xã, thị trấn,
các trục lộ giao thông. Lộ 15 là tuyến vận chuyên, tiếp tế quan trọng từ Sài
Gòn, Biên Hòa về Bà Rịa và Vũng Tàu. Tại Phú Mỹ, thực dân Pháp lập lại bót
kiểm, đóng đồn (cấp đại đội), khống chế toàn bộ khu vực Phú Mỹ-Hắc Dịch-Phước
Hòa.
Trong các cuộc hành
quân càn quét và chiếm đóng, thực dân Pháp bắt nhiều người dân tra tấn, bắn
chết, thả xác trôi sông 5 người dân ấp Mỹ Xuân tại bến Gò Dầu, bắn thả xác trôi
sông. Tại ấp Phú Thạnh, địch bắt bớ và tra tấn dã man hàng chục người, trong đó
có các anh Lê Văn Giai, Lê Văn Đào, Lê Văn Qúi. Anh Lê Văn Qúi bị đánh bằng một
khúc cây đóng 5 cây đinh vào đầu, phun óc chết tại bót, chúng đem quăng xác
xuống sông Thị Vải. Ông Nguyễn Văn Đắc cũng bị ban chết tại đầu cầu Thị Vải,
quăng xác xuống sông. Anh Lê Văn Đào bị tra điện, trấn nước chết đi sống lại
nhiều lần rồi đưa xuống khám Bà Rịa giam cùng ông Lê Văn Giai. Tám người khác
bị đưa ra bắn tại bến Gò Dầu, bỏ xác trôi sông.
Tội ác của thực dân
Pháp không khuất phục được tinh thần nhân dân Phú Thạnh, Mỹ Xuân, mà trái lại,
chỉ làm cho nhân dân thêm căm phẫn và quyết tâm kháng chiến. Anh Lê Văn Đào sau
khi ra tù đã gia nhập lực lượng Ban công tác đặc biệt số 9 tại Bàn Thạch
do đồng chí Nguyễn Văn Kim (Ba Giảo) chỉ huy.
Thực hiện chủ
trương tiêu thổ kháng chiến của Mặt trận Việt Minh và Ủy ban nhân dân tỉnh,
nhiều gia đình, trong đó có bà Mười Ngọt, bà Năm Trang đã tự đốt nhà mình và
vận động nhân dân rút vào rừng, tổ chức lực lượng du kích kháng chiến chống Pháp.
Để củng cố lại lực
lượng, quận ủy Vũng Tàu cử đồng chí Bùi Cửu về sắp xếp lại bộ máy lãnh đạo
kháng chiến của Phú Mỹ. Sau khi ông Cả Lực, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Phú Mỹ
theo Pháp, đồng chí Huỳnh Văn Ngà (Tư Ngà) được chỉ định là chủ tịch, đồng chí
Nguyễn Văn Của là phó chủ tịch, đồng chí Bùi Văn Chính (Chín Đỏ) là uỷ viên
quân sự, đồng chí Lý Kim Đồng là chủ nhiệm Việt Minh, đồng chí Lê Văn Hồng là
đội trưởng đội công tác (phụ trách công an), Nguyễn Văn Báo là ủy viên tài
chính. Ngoài những cán bộ chủ chốt, nhiều cán bộ khác hăng hái tham gia các
công tác chung ở xã Phú Mỹ trong thời kỳ này còn có các đồng chí Chính, Sâm,
Châu, Phúc… Tổ chức Phụ nữ cứu quốc có các chị Nguyễn Văn Kiều, Tư Dần, Bảy Có,
Chím Kiềm, Tám Thà, Nhang, Tới, Phán… hăng hái đảm nhận công việc chung và luôn
hoàn thành nhiệm vụ.
Đội du kích Phú Mỹ
được bổ sung thêm nhiều đội viên, anh Ba Ca về thành thay thế anh Bường làm đội
trưởng, anh Phan Văn Châu làm chính trị viên. Đội du kích Phú Mỹ trở thành nòng
cốt lực lượng du kích tập trung của huyện Vũng Tàu sau này.
Đồng chí Trương
Minh Luân chủ tịch quận về sắp xếp tổ chức bộ máy chính quyền xã Hội Bài, gồm
có các đồng chí Bùi Văn Dân (chủ tịch), Đặng Văn Xe (Phó chủ tịch), Huỳnh Văn
Trụ (trưởng công an); Hội Phụ nữ cứu quốc có các chị Bùi Thị Ngà, Bùi Thị Vinh,
Nguyễn Thị Tứ. Ở Hội Bài, xuất hiện khá sớm phong trào má chiến sĩ. Chi đội 7
(bộ đội Mai Văn Vĩnh) về đây đóng quân thường xuyên nên phong trào hoạt động
ngay từ đầu khá mạnh. Ap Long Xuân thuộc xã Long Hương được nâng lên thành một
xã. Đồng chí Trương Minh Luân, Chủ tịch quận Vũng Tàu đã về củng cố bộ máy
kháng chiến tại đây. Ủy ban hành chính xã Long Xuân được thành lập, trụ sở đặt
tại Giồng Than –Cá Liệt (Láng Cát) do ông Nguyễn Văn Phi làm Chủ tịch.
Thực dân Pháp khẩn
trương khôi phục bộ máy tề nguỵ và mở rộng vùng chiếm đóng. Chúng đưa Bùi Thế
Khâm làm tỉnh trưởng Bà Rịa, ráo riết lập lại hệ thống tề ngụy ở các làng xã,
tổng và quận. Nhiều hương chức, tề ngụy của chính quyền cũ cũng trở lại làm tay
sai cho thực dân Pháp. Chúng tăng thêm binh lực, mở nhiều cuộc hành quân lấn
chiếm đóng chốt ở các đô thị đông dân, có vị trí kinh tế quân sự và các đầu mối
giao thông thủy bộ, kiểm soát chặt các bến cảng cửa khẩu, dùng mọi thủ đoạn mua
chuộc, dụ dỗ lôi kéo và gom dân về sống chung quanh đồn bót, càn quét mở rộng
vùng chiếm đóng, lập tề ngụy, ráo tiết bắt lính. Sau khi Pháp chiếm Bà Rịa, hầu
hết các cán bộ nhân viên của Quốc gia tự vệ Cuộc và cán bộ quận Vũng Tàu rút về
rừng Sác, Long Hương, Bà Trao-Núi Lứa. Đồng chí Nguyễn Ngọc Bảo cùng 10 đội
viên Quốc gia tự vệ Cuộc Vũng tàu rút ra Rừng Sác lập chiến khu.
Quân và dân Tân
Thành củng cố lại lực lượng, bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ,
gian khổ và vô cùng anh dũng./.
Bài 7
Cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài
______________________________
Sau khi thực dân
Pháp chiếm đóng Bà Rịa và các trung tâm quận lỵ, nhiều đảng viên và cán bộ
trung liên rút về Long Mỹ xây dựng căn cứ kháng chiến. Lực lượng vũ trang Bà
Rịa-Vũng Tàu được xây dựng lại. Trên địa bàn tỉnh Bà Rịa chỉ còn ba đội Tuyên
truyền xung phong. Đội Tuyên truyền xung phong của tỉnh do đồng chí Dương Ngọc
Văn (Nguyễn Văn Đường) chỉ huy đang hoạt động ở khu vực Tứ Long (Long Xuyên,
Long Kiên, Long Phước, Long Tân). Ơ Long Điền và Đất Đỏ, mỗi khu vực cũng có
một Đội Tuyên truyền xung phong do các đồng chí Nguyễn Đệ và Lâm Văn Sáu chỉ
huy.
Đội Du kích Quang
Trung là đơn vị vũ trang đầu tiên được thành lập mà nòng cốt là Đội tuyên
truyền xung phong của tỉnh; Hoàng Tiêu là đội trưởng, Nguyễn Quỳ là đội phó,
Dương Ngọc Văn là chính trị viên và 10 đội viên, được phiên chế thành một tiểu
đội. Hoạt động vũ trang tuyên truyền của Đội Du kích Quang Trung đã cổ vũ tinh
thần kháng chiến của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh.
Ngày 6 tháng 3 năm
1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ ta ký kết với đại diện chính phủ
Pháp Hiệp định sơ bộ. Nhân cơ hội này, Mặt trận Việt Minh tỉnh đã đẩy mạnh việc
tuyên truyền, xây dựng cơ sở kháng chiến. Tại hầu hết các xã dọc trục lộ 15,
nhân dân đã treo cờ Tổ quốc để chào mừng Hiệp định sơ bộ.
Hội nghị cán bộ
tỉnh Bà Rịa được tổ chức tại Long Mỹ tháng 3 năm 1946, củng cố một bước bộ máy
lãnh đạo của tỉnh: đồng chí Trần Xuân Độ được tín nhiệm đứng đầu Ban lãnh đạo
kháng chiến ở Bà Rịa-Vũng Tàu; đồng chí Nguyễn Tấn Phúc làm Chủ tịch Ủy ban
hành chính tỉnh; đồng chí Bùi Công Minh là Chủ nhiệm Ủy ban Mặt trận Việt Minh
tỉnh với nhiệm vụ cùng các đồng chí Võ Văn Thiết, Trương Văn Tân, Nguyễn Tấn
Cách củng cố hệ thống Mặt trận Việt Minh trong toàn tỉnh; đồng chí Nguyễn Quỳ
phụ trách quân sự tại khu Đông Bà Rịa với nhiệm vụ tổ chức lại tự vệ chiến đấu
quân; Hoàng Tiêu phụ trách Công an Khu Đông và Ban Trinh sát.
Cuối tháng 3 năm
1946, đồng chí Trần Xuân Độ về nhận nhiệm vụ Chủ nhiệm chính trị bộ Khu 7, đồng
chí Nguyễn Tấn Phúc bị thổ huyết nặng, sau đó được tổ chức bố trí cho về miền
Bắc chữa bệnh, số cán bộ chủ chốt của các ngành quân dân chính Đảng lúc đó chỉ
đếm trên đầu ngón tay. Việc liên lạc giữa Khu Tây (khu vực lộ 15) và Khu Đông
(Chiến khu Long Mỹ) bị gián đoạn. Các xã vùng lộ 15 không nhận được sự chỉ đạo
của trên, vẫn chủ động lãnh đạo nhân dân tản cư tránh giặc, và tổ chức lại lực
lượng kháng chiến.
Khi thực dân Pháp
chiếm Bà Rịa, Quốc gia tự vệ cuộc (tiền thân của công an nhân dân) tỉnh đã xây
dựng căn cứ trên Núi Dinh, sau đó cử nhân viên liên lạc với xã Hắc Dịch, củng
cố bộ máy chính quyền ở xã Hắc Dịch và khảo sát địa điểm xây dựng căn cứ. Sau
đó vì liên lạc và tiếp tế lương thực thực phẩm khó khăn nên Quốc gia tự vệ cuộc
đã rút về Phước Hòa. Ông Kiểm Lượng, Trưởng trạm kiểm lâm Phước Hòa mổ trâu
khao quân và giúp tìm địa điểm đặt căn cứ. Phía Nam lộ 15, giáp Phước Hòa có ấp
Tắc Moi trước thuộc xã Long Hương. Sau khi thực dân Pháp tái chiếm, nhiều người
dân bất hợp tác với địch đã quần tụ quanh Tắc Moi. Quận Vũng Tàu cử đồng chí
Trương Minh Luân về thành lập xã Long Hòa trực thuộc quận Vũng Tàu. Quốc gia tự
vệ Cuộc đã chọn Tắc Moi đặt căn cứ. Dân Long Hòa, Phước Hoà, Hội Bài và các lân
vùng Rừng Sác, sinh sống bằng nghề chài lưới, cắm đăng, đốn củi đước, bán muối,
đã phục vụ cho công an tỉnh nắm tình hình địch.
Đầu tháng 5 năm
1946, được sự hỗ trợ của du kích xã Phú Mỹ và xã Hội Bài, một phân đội của Chi
đội 7 do đồng chí Nguyễn Văn Soái và Bảy Ngữ chỉ huy đã tổ chức đánh phục kích
trên lộ 15 đoạn từ núi Thị Vãi đến núi Ông Trịnh. Khoảng 9 giờ 30 sáng, đoàn xe
địch đến 4 chiếc từ Vũng Tàu về Sài Gòn lọt vào trận địa. Quân ta nổ súng và
xung phong, diệt nhiều tên, đốt cháy 3 xe quân sự, thu 25 súng, bắt sống 2 tù
binh.
Trong số sỹ quan
Pháp bị tiêu diệt trong trận này, có trung úy Jacqee Le Guyader, sỹ quan tham
mưu của thực dân Pháp ở miền Đông Nam Bộ. Cuốn nhật ký của Trung úy Pháp Jacqee
Le Guyader mà ta thu được, trong đó có những dòng hắn viết trước khi chết cho
biết, hắn vừa tốt nghiệp trường Đại học quân sự Saint Cyrn, được điều động đến
làm việc tại Bộ tham mưu quân Pháp ở miền Đông Nam bộ. Hắn có nhiệm vụ đi tìm
hiểu thực tế tình hình chiến trường Bà Rịa-Cấp. Đoàn xe chở hắn bị phục kích
trên quốc lộ 15, đoạn gần núi Ông Trịnh, phía Nam làng Phú Mỹ, phía Bắc làng
Phước Hoà.
Để đáp ứng yêu cầu
mới của sự phát triển Mặt trận dân tộc thống nhất, Trung ương Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh chủ trương vận động thành lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi
tắt là Hội Liên Việt) vào ngày 2 tháng 5 năm 1946. Bốn tháng sau, Hội Liên Việt
Bà Rịa được thành lập (9/1946), Mặt trận Việt Minh là nòng cốt của Liên Việt,
tập hợp, đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân tham gia kháng chiến.
Từ giữa năm 1946,
thực dân Pháp điều một bộ phận binh lực ra miền Bắc, chuẩn bị thay thế quân đội
Tưởng Giới Thạch. Ở Nam Bộ, chúng rút các đồn bót lẻ về cố thủ các cứ điểm lớn.
Chúng lập chính phủ bù nhìn Nam Kỳ tự trị do tên Nguyễn Văn Thinh làm chủ
tướng, khôi phục hội tề ở cơ sở, chia rẽ lương giáo, chia rẽ Bắc Nam . Trong tình
hình đó, quân khu 7 chủ trương tăng cường xây dựng lực lượng, thành lập các Chi
đội Vệ Quốc đoàn trong từng tỉnh; lập thêm các công binh xưởng; phát triển và
mở rộng lực lượng dân quân ở cơ sở; tích cực chống địch càn quét khủng bố; đẩy
mạnh công tác địch vận, lôi kéo ngụy binh. Trên chiến trường Bà Rịa, ta vẫn làm
chủ nhiều vùng nông thôn. Ngay cả một số nơi tuy địch đã lập tề xã, chúng cũng
không kiểm soát nổi.
Ban vận động thành
lập Mặt trận Việt Minh tỉnh đã mở lớp huấn luyện đầu tiên trong tháng 6 và
tháng 7 năm 1946 tại Long Mỹ và Phước Hải. Một số cán bộ và quần chúng tích cực
ở các huyện xã địa bàn nam-bắc lộ 15 đã tham dự đợt huấn luyện này. Nội dung
huấn luyện gồm tôn chỉ mục đích, cương lĩnh, điều lệ Việt Minh; cách tuyên
truyền, tổ chức và hoạt động của Việt Minh cơ sở. Hai lớp học này đã nâng cao
trình độ cán bộ Việt Minh các cấp, mở rộng phong trào vận động nhân dân ở các
xã. Tổ chức Việt Minh các quận được thành lập.
Sau các lớp huấn
luyện Việt Minh, hệ thống chính quyền, Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu
quốc ở hầu khắp các quận, xã đã được củng cố, tạo điều kiện đẩy mạnh cuộc kháng
chiến. Tháng 8 năm 1946, Ban vận động thành lập Mặt trận Việt Minh tỉnh tổ chức
hội nghị tại Long Mỹ, tuyên bố thành lập Ủy ban Mặt trận Việt Minh tỉnh Bà Rịa.
Đồng chí Bùi Công Minh được bầu làm chủ nhiệm. Hội nghị quyết định các chủ
trương: củng cố tổ chức cơ sở Việt Minh trong toàn tỉnh; huy động nhân tài vật
lực phục vụ cho kháng chiến; phá hoại giao thông, ngăn chặn địch mở rộng lấn
chiếm; diệt tề trừ gian.
Địa bàn Rừng Sác –
lộ 15 khi đó trở thành căn cứ của nhiều đơn vị trong lực lượng vũ trang miền
Đông Nam Bộ như bộ đội Mai Văn Vĩnh, bộ đội Trần Văn Soái (sau tổ chức thành
Chi đội 2), Bộ đội Trần Văn Lực (sau tổ chức thành chi đội 9). Trung đội 2 Bình
Xuyên do Mai Văn Vĩnh (con rể ông Tám Mạnh) chỉ huy rút về đây sau khi mặt trận
Sài Gòn vỡ, quân số lúc đầu có hơn 40 người, trang bị 17 súng. Được sự giúp đỡ
của nhân dân Bà Trao – Núi Nứa và các xã dọc lộ 15, bộ đội Mai Văn Vĩnh khắc
phục nhiều khó khăn và ngày càng lớn mạnh. Nhân dân các xã vùng lộ 15 đã có mối
quan hệ gắn bó với bộ đội Mai Văn Vĩnh ngay từ những ngày đầu đơn vị về đóng
quân trên địa bàn, từng nhường cơm, sẻ áo, hợp tác phá kho súng của Nhật lấy
súng đạn tự trang bị và đưa con em mình vào xây dựng lực lượng vũ trang.
Thực hiện Nghị
quyết của Bộ Tư lệnh Khu 7 về việc thành lập các Chi đội Vệ quốc đoàn trên địa
bàn từng tỉnh, tháng 8 năm 1946, bộ đội Mai Văn Vĩnh được tổ chức thành Chi đội
7, bổ sung thêm quân số, trang bị vũ khí khá mạnh. Ban chỉ huy gồm các đồng
chí: Mai Văn Vĩnh (Chi đội trưởng), Nguyễn Đăng Khoa (chính trị viên), Trịnh
Văn Tài (Chi đội phó). Chi đội 7 thường xuyên hoạt động ở khu Tây Bà Rịa, khống
chế lộ 15, phối hợp với du kích các xã chống càn quét, trên tuyến Phước Hòa-Phú
Mỹ-Phước Thái, góp phần nâng cao sức chiến đấu chung cho lực lượng vũ
trang tỉnh và huyện trong những năm đầu kháng chiến. Du kích Phú Mỹ đưa bộ đội
Mai Văn Vĩnh đột nhập vào sân bay tháo gỡ máy móc và nguyên vật liệu đưa về
trang bị cho Công binh xưởng.
Ngày 14 tháng 9 năm
1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Chính phủ Pháp bản Tạm ước gồm 11 điều khoản,
tạo điều kiện cho nhân dân ta có thêm thời gian chuẩn bị lực lượng bước vào
cuộc kháng chiến trên cả nước. Mặt trận Việt Minh tỉnh chỉ đạo một đợt vũ trang
tuyên truyền, kêu gọi nhân dân ủng hộ kháng chiến. Cờ đỏ sao vàng, và khẩu hiệu
hoan nghênh Tạm ước được treo ở tất cả các xã. Thực dân Pháo cho lính xuống
từng xã để gỡ cờ, khủng bố nhân dân. Ủy ban Việt Minh quận, xã đã lãnh đạo nhân
dân đấu tranh quyết liệt với địch, chặn bàn tay khủng bố của chúng. Ty công an
phối hợp với các lực lượng vũ trang và các đội tự vệ chiến đấu ở các làng diệt
trừ gian, tịch thu toàn bộ sổ sách giấy tờ, giải tán nhiều ban tề ngụy ấp, xã
trong toàn tỉnh.
Hưởng ứng đợt phát
động của Mặt trận Việt Minh, nhân dân các xã đã huy động lực lượng, phá hoại
nhiều đoạn trên quốc lộ 15. các cuộc diệt ác phá kềm và phá hoại giao thông
địch đã có kế hoạch chuẩn bị trước, có sự phối hợp chặt chẽ nhịp nhàng giữa các
địa phương trong toàn tỉnh có tác dụng quan trọng tích cực cổ vũ tinh thần nhân
dân, binh sĩ trong các đô thị và vùng nông thôn tin tưởng và tham gia ủng hộ
kháng chiến, đồng thời tác động mạnh trong tinh thần bọn tay sai của thực dân
Pháp.
Đầu tháng 10 năm
1946, trong cương vị Chủ nhiệm chính trị bộ Khu 7, đồng chí Trần Xuân Độ về
Long Mỹ trực tiếp chỉ đạo củng cố chính quyền và các đoàn thể trong tỉnh. Hội
nghị Mặt trận Việt Minh tỉnh do đồng chí Trần Xuân Độ chủ trì vào trung tuần
tháng 10 năm 1946 tại Long Mỹ, có hơn 70 đại biểu, đại diện đủ các ngành, các
giới trong tỉnh tham dự. Tại hội nghị này, đồng chí Lâm Văn Võ được cử làm chủ
tịch Ủy ban hành chính thay ông Huỳnh Thừa Tuyên vừa bị Pháp bắn chết trong một
trận càn; đồng chí Lưu Văn Qui là uỷ viên xã hội. Ủy ban hành chính các xã cũng
được củng cố.
Ông Trương Văn Tới
là Chủ tịch Ủy ban hành chính xã Hội Bài A, ông Bùi Văn Đâu là chủ tịch Ủy ban
hành chính xã Hội Thạnh, Ông Lê Văn Cúc là chủ tịch Ủy ban hành chính xã Phú
Mỹ. Theo sự chỉ đạo của Mặt trận Việt Minh huyện, các xã đều tổ chức được các đoàn
thể Thanh niên Cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc, Nông dân Cứu quốc, Công nhân Cứu quốc
và các đoàn thể cứu quốc khác trong Ủy ban Mặt trận Việt Minh. Cũng vào thời
điểm này, Chi đội 16 đã được thành lập. Chi đội 16 coi trọng nhiệm vụ giúp đỡ
phong trào du kích chiến tranh tại các xã ấp, huấn luyện các lực lượng tự vệ và
phối hợp chống càn quét lấn chiếm của địch. Tự vệ chiến đấu các xã dọc quốc lộ
15 đã hăng hái tham gia cùng nhân dân đào phá lộ, dựng chướng ngại vật, ngăn
chặn giao thông địch.Xưởng có nhiều máy tiện và máy công cụ sản xuất cơ khí
khác; phần lớn được chuyển từ Sài Gòn về. Công nhân viên Xưởng quân giới phần
lớn có tay nghề khá, từng là thợ xưởng Ba Son tình nguyện tham gia kháng chiến.
Nhờ tổ chức tốt công tác binh vận, xây dựng được nhiều cơ sở mật tại nội thành
nên việc tiếp tế cung ứng nguyên vật liệu, hóa chất, đảm bảo đủ cho xưởng sản
xuất một số súng phóng lựu, tiểu liên, thompson trang bị cho Chi đội, đồng thời
hỗ trợ các đơn vị và du lích các xã dọc lộ 15. Trước dã tâm xâm lược ngày càng
trắng trợn của thực dân Pháp, Trung ương Đảng và Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã phát
động toàn quốc kháng chiến. Ngày 19 tháng 12 năm 1946, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã
ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến với quyết tâm: “Thà hy sinh tất cả chứ
không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, Mặt trận Việt Minh tỉnh Bà Rịa đã phát động quân và dân toàn tỉnh
bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược./.
Bài 8
Xây dựng Đảng bộ, phát triển du kích chiến tranh, giải
phóng lộ 15 năm 1947
____________________________________
Năm 1947, thực dân
Pháp đã xây dựng xong bộ máy hội tề và đóng đồn bót dọc lộ 15, hình thành hệ
thống phòng thủ liên hoàn từ Phú Mỹ đến Ông Trịnh, Rạch Tre, Rạch Váng, Long
Hương. Để đối phó với những thủ đoạn mới của địch, các lực lượng kháng chiến
trong tỉnh cũng nỗ lực củng cố hệ thống tổ chức Đảng, chính quyền và Mặt trận
Việt Minh, đẩy mạnh cuộc kháng chiến.
Đầu năm 1947, Mặt
trận Việt Minh quân Vũng Tàu được thành lập, chủ nhiệm là đồng chí Võ Minh Quân
(tức Võ Văn Nhân), phó chủ nhiệm là chị Công Tôn Nữ Phượng Trâm (tên thật là
Thu), đồng chí Võ Văn Ấn làm thư ký.
Đồng chí Lương Văn
Trọng được Tư lệnh Khu 7 cử về làm ủy viên quân sự tỉnh Bà Rịa đã đặt cơ
quan tại Bàn Thạch. Cũng trong dịp này, đồng chí Nguyễn Văn Kim (tức Ba Kim, Ba
Giảo) được cử về xây dựng Ban công tác đặc biệt số 9. Nhiều thanh niên Phú
Thạnh, Mỹ Xuân đã tham gia lực lượng Ban công tác đặc biệt số 9. Tháng 3 năm
1947, Ban công tác đặc biệt số 9 chính thức được thành lập với 14 đội viên,
đồng chí Huỳnh Văn Sổ làm đội trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Của làm đội phó dưới
sự chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Văn Kim.
Ban công tác đặc
biệt số 9 đặt căn cứ Bàn Thạch (Phú Mỹ) xây dựng căn cứ bàn đạp Bà Trao-Núi
Nứa, từ đó phát triển cơ sở về Thị xã Cấp và Bà Rịa, nắm tin tức, địch tình,
cung cấp cho quân khu, đồng thời tham gia diệt ác, trừ gian tại địa phương.
Nhân dân Phú Mỹ, Hội Bài đã cung cấp lương thực thực phẩm và tạo điều kiện cho
cơ quan quân sự tỉnh và Ban công tác đặc biệt số 9 đã trừng trị tên Lê Văn Hoa
(Sáu Hoa), một tên chỉ điểm có nhiều nợ máu với nhân dân. Y đã dẫn đường cho
thực dân Pháp càn quét vào làng, bắn chết nhiều cán bộ kháng chiến và đàn áp
nhân dân. Đồng chí Sổ, đội trưởng đội công tác, cùng 2 đội viên đã đến tiệm Sáu
Hoa mua rượu, đồ nhậu và đã dùng súng bắn chết Sáu Hoa tại nhà y ở Phú Mỹ.
Từ năm 1947, các
phong trào Hũ gạo nuôi quân, Hội mẹ chiến sĩ đỡ đầu chiến sĩ, Mùa đông binh sĩ,
Cứu trợ thương binh được các đoàn thể cứu quốc vận động đông đảo các tầng lớp
nhân dân tham gia. Hội phụ nữ, Hội mẹ chiến sĩ đã vận động nhân dân trong xã,
mỗi gia đình dành một hũ gạo nuôi quân, tổ chức kết nghĩa giữa hội phụ nữ với
các đơn vị vũ trang đóng ở địa bàn. Hội mẹ chiến sĩ đóng vai trò trọng yếu
trong các công cuộc vận động, chăm lo cán bộ chiến sĩ trong các đơn vị bộ đội
tỉnh, chi đội 7, chi đội 2.
Tình hình tài chính
lúc đó rất khó khăn, thực hiện chủ trương của tỉnh, Ủy ban Kháng chiến Hành
chính quận và các làng đều tích cực thu ngân sách, đẩy mạnh phát triển kinh tế
tự túc. Tháng 2 năm 1947, Ủy ban hành chính tỉnh phát hành 200.000 đồng tín
phiếu kháng chiến loại 50 đồng và 100 đồng. Mặc dù đời sống kinh tế vùng lộ 15
rất thiếu đói, nhân dân các xã vẫn tích cực mua tín phiếu kháng chiến. Thực
hiện chủ trương “tiêu dùng bạc Việt Nam, tiêu dùng hàng Việt Nam, tẩy chay hàng
hóa địch” của Chính phủ kháng chiến, lực lượng công an, du kích và ban thuế các
xã đã tổ chức các trạm trên lộ 15, kiểm soát chặt chẽ hàng hóa như nhu yếu
phẩm, gạo, thịt heo gà, và vận động nhân dân tiêu dùng bạc Việt Nam của Cụ Hồ.
Ủy ban hành chính xã tổ chức Hợp tác xã mua bán cá khô mắm, thuốc, đường khối,
thuốc rê, cung cấp cho quận, đồng thời giúp bộ phận quân nhu tỉnh mua lúa gạo
từ Cần Giờ, Gò Công về cung cấp cho lực lượng vũ trang và bán lại cho
dân.
Thực hiện chỉ thị
của Xứ ủy và sự chỉ đạo của Liên Tỉnh ủy, đồng chí Trần Xuân Độ, Chủ nhiệm
Chính trị bộ Khu 7 về Bà Rịa, cùng các đồng chí Nguyễn Tấn Cách, Bùi Công Minh
chuẩn bị điều kiện cần thiết để thành lập Đảng bộ. Nhờ sự nỗ lực của các cán bộ
chủ chốt trong Hội nghiên cứu Mácxít, cùng với sự chỉ đạo và cán bộ tăng cường
của Liên Tỉnh ủy Miền Đông Nam Bộ, Tỉnh ủy Lâm thời tỉnh Bà Rịa được thành lập
tại căn cứ Long Mỹ tháng 4 năm 1947. Tỉnh ủy lâm thời chủ trương đẩy mạnh công
tác phát triển Đảng, thành lập các chi bộ xã để tiến tới thành lập cấp ủy ở các
quận; phát triển và xây dựng tổ chức Đảng trong quân đội, chính quyền và các
ban ngành của tỉnh; tuyên truyền rộng rãi chủ nghĩa cộng sản; đẩy mạnh công tác
đào tạo cán bộ; xây dựng căn cứ kháng chiến.
Theo sự chỉ đạo của
tỉnh, tháng 4 năm 1947, quận Vũng Tàu tổ chức bầu cử Ủy ban hành chính quận,
đồng chí Dương Ngọc Văn, Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh về dự và chỉ đạo.
Đồng chí Nguyễn Đăng Khoa đắc cử Chủ tịch quận. Xã Phú Mỹ cũng tổ chức bầu cử,
ông Lê Văn Cúc là chủ tịch, ông Bùi Văn Chính (tức Chín Đỏ) là Ủy viên quân sự.
Trụ sở Ủy ban xã Phú Mỹ đóng ở Rẫy Thơm (Suối Cả).
Song song với công
tác thu đảm phụ quốc phòng, vận động ủng hộ nuôi quân, từ năm 1947, các xã vùng
lộ 15 đã tổ chức thu thuế nông nghiệp. Dân lộ 15 ít ruộng, chỉ tập trung ở Phú
Mỹ, còn lại là đất trồng màu. Một phần lớn đồng bào sinh sống ở các lân Rừng
Sác, Rừng Giồng làm nghề lưới, câu, đốn củi, múc dầu chai bán vào thành thị.
Các xã tổ chức hệ thống trạm thủy lâm thu thuế ở các cửa ngõ sông rạch, để vừa
thu thuế thủy lâm, đồng thời làm nhiệm vụ canh phòng cho nông dân sản xuất, kịp
thời báo tin cho nhân dân mỗi khi có giặc càn, hạn chế tổn thất.
Tỉnh ủy chỉ định
đồng chí Lê Đình Y là Bí thư Quận ủy Vũng Tàu. Quận ủy mở lớp huấn luyện về Chủ
nghĩa Mác-Lênin. Nhiều cán bộ chủ chốt của các xã đã được tham dự lớp huấn
luyện và sau đó được kết nạp vào Đảng cộng sản . Chi bộ các xã được thành lập.
Chi bộ xã Phú Mỹ mang bí số là 72, đồng chí Võ Văn Khuê là Bí thư. Chi bộ xã
Phước Hòa mang bí số 78. Tháng 10 năm 1947, quận ủy Vũng Tàu được thành lập,
đồng chí Lê Đình Y là bí thư Quận ủy; đồng chí Trương Minh Luân là Phó Bí thư
kiêm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến quận.
Nhân dịp thực dân
Pháp tập trung quân ra chiến trường Việt Bắc với ý đồ tiêu diệt quân chủ lực và
cơ quan lãnh đạo Trung ương. Bộ tư lệnh và Khu ủy quân khu 7 chủ trương đẩy
mạnh chiến tranh du kích nhằm tiêu hao sinh lực địch, phối hợp chiến trường cả
nước, củng cố và mở rộng vùng giải phóng. Các lực lượng vũ trang trong tỉnh đã
tận dụng thời cơ, đẩy mạnh hoạt động. Tháng 4 năm 1947, Chi đội 16 phá sập Cầu
Trọng, bức rút Chi khu Xuyên Mộc, mở rộng vùng giải phóng của tỉnh. Tháng 6 năm
1947, Quốc vệ đội tỉnh Bà Rịa đã hạ ở đồn Bến Đá, giải phóng Bà Trao-Núi Nứa,
tạo điều kiện cho phong trào cách mạng khu vực nam-bắc lộ 15 phát triển.
Trên hướng lộ 15,
được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang đóng trên địa bàn (Chi đội 7, Chi đội 2,
bộ đội Hoàng Thọ), quân và dân các xã trong quận đã tích cực vây ép đồn địch, hỗ
trợ cho nhân dân các xã đào đường, phá cầu, chặt cây, đắp mô, chặn địch. Tỉnh
ủy chỉ đạo quận Vũng Tàu phải bằng mọi cách phải “phá quốc lộ 15, chặt đứt giao
thông địch”. Khẩu hiệu của chiến dịch phá lộ là “người dân nào đào được một hố
trên lộ 15 coi như giết được một tên giặc”, “đơn vị nào phá được một quãng
đường dài 100 mét coi như đánh thắng một trận”.
Quận ủy chỉ đạo lấy
cấp xã làm đơn vị, mỗi xã tuỳ theo số lượng người chia thành nhiều tổ, mỗi tổ
từ 6 đến 10 người để đào và phá đường. Lúc đầu do lực lượng ít, tổ chức phân
tán nên hiệu quả không cao. Đêm ta phá, ngày địch cho quân san ủi, xe địch vẫn
lưu thông được. Quận ủy chỉ đạo rút kinh nghiệm, tập trung lực lượng, đào từ lề
đường, móc hàm ếch vào lòng đường thật sâu rồi đánh sập từng mảnh lớn, cắt đứt
từng đoạn đường. Phương thức này nhanh chóng đem lại hiệu quả cao, khiến địch
không thể khắc phục ngay được. Quận phát động phong trào thi đua phá lộ và đặt
giải thưởng một khẩu súng trường cho đơn vị nào đạt hiệu quả cao nhất. Quận ủy
và Ủy ban Kháng chiến Hành chính quận tổ chức đoàn kiểm tra của quân – dân –
chính quận, có đại biểu ở các xã để nghiệm thu và phát thưởng. Các xã đều động
viên đồng bào phấn khởi thi đua lập thành tích, tranh giải thưởng với tinh thần
tự giác rất cao.
Theo chỉ tiêu ấn
định, mỗi đêm, mỗi xã huy động từ 100 đến 200 người phá đường, gồm cả thanh
niên nam nữ, nông dân và hội mẹ. Dân quân du kích tổ chức canh gác cho nhân dân
phá cầu, đào đường, đắp ụ. Ban ngày giặc sửa chữa, san lấp, đến đêm đồng bào
tiếp tục phá. Thanh niên, phụ nữ đào đường, đắp ụ, các cụ lão cứu quốc cũng
tham gia nêm cuốc, sửa xẻng, Hội mẹ chiến sĩ mang cơm nước quà bánh đến cho dân
quân. Phong trào phá hoại giao thông địch trên lộ 15 thể hiện rõ hình ảnh cuộc
kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ.
Nhân dân các xã đã
sáng tạo nhiều cách phá đường. Hố được đào nhiều kiểu: hố chữ U, chữ I, chữ V,
chữ Z, có nơi cả một đoạn đường bị cắt đứt làm đôi, sâu đến 2 mét. Vừa làm, các
xã vừa tổ chức rút kinh nghiệm và phổ biến những sáng kiến có hiệu quả cao. Xã
Phú Mỹ có cách đào hầm ếch rồi đánh sập mặt đường xuống. Xã Hội Bài có kinh
nghiệm đào xuyên sườn móc đất sâu vào trong rồi cũng đánh sập mặt đường. Lúc
đầu, địch phản kích lại bằng càn quét, cho bộ binh đi sửa cầu, lấp hố, nhưng cố
gắng của giặc không bù lại nỗ lực phá đường của nhân dân các xã trên lộ 15.
Từ tháng 9 năm
1947, nhân dân xã Hội Bài, Phú Mỹ, Phước Hoà, Xuân Hòa, Long Hương, với sự hỗ
trợ của bộ đội, dân công của tỉnh và quận đã phá sập hàng loạt các cây cầu trên
lộ 15 (cầu Bà Bao, cầu Nước Ngọt, cầu Rạch Chanh, cầu Cây Sao, cầu Thị Vải).
Thiếu mìn và thuốc nổ, đồng bào đã sáng tạo ra cách phá cầu bằng cách chất đá
lên mặt cầu rồi dùng hàng chục thước khối củi chất dưới gầm cầu, đổ dầu lên
đốt; lửa cháy nung đỏ các thanh sắt và dưới sức nặng của đá, cầu sập. Đồng chí
Chín Đỏ (Nguyễn Văn Chính) xã đội trưởng Phú Mỹ là người rất xông xáo, ngày đêm
túc trực chỉ đạo trong chiến dịch phá đường.
Hội phụ nữ cứu quốc
các xã Phú Mỹ, Hội Bài, Bà Trao-Núi Nứa đã tổ chức quyên góp nếp, gạo, chuối,
cua luộc, tôm rang gởi lên mặt trận lộ 15, động viên kịp thời, nhất là những
đợt tập trung lực lượng đột phá, có bộ đội tham gia. Đêm trên lộ 15 trong chiến
dịch phá lộ vui như ngày hội, anh em quên cả mệt nhọc. Nhiều anh em cầm búa,
cuốc xẻng phá đường suốt đêm, bàn tay rướm máu nhưng vẫn vui cười vì cán bộ cấp
trên luôn đi sát, lại có các mẹ, các chị đến tận tuyến đường động viên, ủng hộ.
Nhiều bài ca, bài hò vè được sáng tác tại chỗ để cổ vũ tinh thần cán bộ chiến
sĩ và nhân dân. Không khí sôi nổi trong những ngày phá lộ 15 còn âm vang trong
những câu ca dao, hò vè:
Ai qua Phú Mỹ, Hội
Bài,
Phá đường hỏi được
bao dài hỡi em
Phá ngày rồi lại
phá đêm
Bàn tay rướm máu,
hỏi em vẫn cười.
Phong trào phá lộ
15 trong thời kỳ này thực sự trở thành một mặt trận kháng chiến của toàn dân.
Chấp hành sự chỉ đạo của tỉnh, quận Vũng Tàu đã huy động cả lực lượng tiếp tục
băm nát lộ 15. Tỉnh ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh chỉ đạo quận
Long Điền huy động thêm dân công các xã Long Xuyên, Long Kiên, Long Phước tham gia
mặt trận phá lộ 15. Từ Long Kiên, Long Xuyên đến Phú Mỹ phải vượt qua các cánh
đồng ruộng sình lầy, xuyên qua rừng rậm Châu Pha trên khoảng đường dài hơn hai
chục cây số nhưng với tinh thần quyết tâm kháng chiến, lực lượng dân công vùng
Tứ Long huy động luôn đủ số lượng và hoàn thành tốt nhiệm vụ, chỉ tiêu kế hoạch
được giao. Hội Phụ nữ Cứu quốc, Hội mẹ chiến sĩ các xã vùng Tứ Long còn
tổ chức từng đoàn đem quà bánh đến thăm, cổ vũ mặt trận phá đường. Tình đoàn
kết chiến đấu của quân dân các xã còn lưu lại trong những câu ca lưu luyến:
Ai qua Phú Mỹ, Hội
Bài,
Đừng quên Long
Phước chuối xoài mẹ cho.
Từ tháng 9 năm 1947, quốc lộ 15 từ Sài Gòn đi Vũng Tàu bị ta cắt
đứt, xe địch không còn lưu thông được nữa. Quân Pháp buộc phải rút khỏi đồn Phú
Mỹ. Toàn bộ vùng đất rộng lớn từ phía Nam-Bắc lộ 15, hoàn toàn được giải phóng.
Một dải Rừng Sác rộng hàng trăm cây số vuông từ Phú Mỹ, Hội Bài ra Bà Trao-Núi
Nứa đến Thạnh An, áp sát cửa sông Lòng Tàu, từ Rừng Sác nối với vùng Rừng Giồng
qua lộ 15, vào đến núi Ông Trịnh, Thị Vải và khu rừng già bạt ngàn Phú Mỹ –Hắc
Dịch, Châu Pha, hình thành khu giải phóng rộng lớn, có thể xây dựng căn cứ địa
của quận và của tỉnh. Phú Mỹ –Hắc Dịch trở thành địa bàn đứng chân của lực
lượng vũ trang, xây dựng và rèn luyện, lực lượng, là bàn đạp để hoạt động, tấn
công địch. Thực dân Pháp phải tiếp tế cho Bà Rịa qua lộ 2 theo từng chuyến công
và có hộ tống, trở thành mục tiêu cho những trận đánh giao thông của bộ đội.
Sau khi đánh sập
các cây cầu, quận ủy chỉ đạo các xã huy động lực lượng và nhân dân hàn các cửa
sông rạch tại những nơi hiểm yếu trên các tuyến sông Rừng Sác, cắm cọc, gài
chông, đặt mìn, thủy lôi bịt kín các đầu vàm không cho các cánh quân địch theo
đường thủy đổ bộ đánh và sửa đường. Kế hoạch “cắm cản” được xây dựng và giao
chỉ tiêu cho các xã vùng Rừng Sác. Đồng bào dùng cây đước to cắm thành từng
hàng xuống lòng sông ở vàm Bàn Thạch, vàm Giồng Muối. Cây đước vùng Rừng Sác
không thiếu, song khó khăn chính đặt ra là dân số Hội Bài, Phú Mỹ quá ít, thiếu
nhân công chặt đước, vận chuyển đước và kỹ thuật cắm cọc.
Quận ủy đã cử cán
bộ về các xã bàn bạc cùng dân, huy động thêm dân công các xã, chặt và vận
chuyển về gần 5.000 cây đước. Giữa tháng 9 năm 1947, việc “cắm cản” các lòng
sông đã hoàn thành. Chi đội 7, chi đội 2 đã xây dựng phương án chặn đánh các
loại tàu và bọn lính thủy đánh bộ Pháp càn quét bằng đường thủy. Không khí sôi
nổi của thời kỳ phá đường, hàn sông, xây dựng làng chiến đấu được ghi lại đậm
nét trong ca dao kháng chiến của địa phương thời ấy:
Trên thì hào rộng
chặn xe,
Dưới thì đắp cản
phòng khi ngăn tàu.
Trong làng bất cứ
chỗ nào,
Đào hầm chông nhọn
giặc vào phải tiêu.
Địa lôi với lựu đạn
gài,
Sẵn sàng bố trí
trong ngoài dưới trên.
Tây vô mìn giật nổ
rền,
Trăm thằng đi bố
mười tên trở về…
Các phương án đánh
địch lấn chiếm trên lộ 15 và phương án chống giặc nhảy dù đã được lực lượng vũ
trang quận và tỉnh bố trí chặt chẽ. Nhân dân Phú Mỹ, Hội Bài, Phước Hòa đã chặt
hàng vạn cây cọc vạt nhọn hai đầu, cắm xuống đất, mũi nhọn chọc lên trời tua
tủa như những cánh rừng chông khắp Sân bay Phú Mỹ và các bãi trống bên rìa núi,
cánh đồng Hội Bài. Du kích và lực lượng vũ trang trên địa bàn sẵn sàng các
phương án phối hợp chống càn./.
Bài 9
Củng cố chính quyền, xây dựng căn cứ địa cách mạng
______________________________
Năm 1948, thực dân
Pháp tăng cường bình định đồng bằng Nam bộ. Chúng tiếp tục bắt lính xây
dựng ngụy quân, xúc tiến tổ chức lực lượng vũ trang giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo,
tăng cường bắt lính, mở rộng nhiều cuộc hành quân lớn đánh vào căn cứ ta, củng
cố vùng chiếm đóng với chiến “Tháp Canh” De Latour và tăng cường bộ máy hội tề,
chú trọng đánh vào hạ tầng cơ sở của cách mạng, đánh vào lực lượng chính trị,
cơ sở kinh tế, đánh vào kinh tế dự trữ và hậu cứ của ta.
Ngay trong những
ngày đầu năm, thực dân Pháp mở một trận càn từ hướng Rừng Sác. Tàu giặc tiến
vào sông Bàn Thạch, ngược lên xã Phú Mỹ càn quét thăm dò hòng từng bước chiếm
lại lộ 15. Đoàn tàu giặc bị chặn đứng trước những hàng cây đước ken dày đặc
lòng sông. Hai chiếc tàu đổ bộ hiệu LCT, LCI mũi bằng, tăng tốc độ xông vào phá
hàng cọc. Chiếc tàu thứ nhất bị trúng thủy lôi đặt giữa hàng cọc, lửa bùng lên,
khói mịt mù trùm lên buồng lái. Chiếc thứ hai quay lại định trốn chạy đụng thủy
lôi du kích Phú Mỹ gài. Tàu giặc phía sau nổ súng bắn loạn xạ, nhưng tổ đánh thủy
lôi của ta đã rút lui an toàn.
Đầu năm 1948, các
đồng chí Võ Văn Ấn, Kiều Nguyên Nhung, Kiều Thanh Cỏn, Nguyễn Văn Tình trong
Ban thông tin tuyên truyền quận Vũng Tàu đã tổ chức hai lớp huấn luyện Việt
Minh cho cán bộ chủ chốt của quận và các xã tại chùa Chân núi Thị Vải, có 35
học viên tham gia. Các chùa trên núi Thị Vải đều đóng góp lương thực thực phẩm
và phục vụ cho lớp học. Nhân dịp có lớp huấn luyện, đồng chí Nguyễn Văn Hồng,
Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh xã Phú Mỹ đề nghị Ban thông tin tuyên truyền huyện
phối hợp vận động tăng ni phật tử tham gia kháng chiến. Thầy Hay trụ trì chùa
Chân đã xuống núi tham gia công tác trong Hội Phật giáo cứu quốc.
Trên núi Thị Vải
còn có một gia đình ở Sài Gòn về đây tu hành. Ông Lê Nghi Bình là một trí thức,
cùng vợ là bà Kim Anh (người Hoa) nguyên là Giám đốc Nữ công gia chánh Học
đường đã từ bỏ cõi tục về đây lập chùa tu hành từ trước năm 1945, dựng nên ngôi
Chùa Giữa. Bà đem theo một đệ tử là học trò của bà. Hưởng ứng đợt vận động của
Mặt trận Việt Minh, cả nhà bà đều tình nguyện theo kháng chiến. Ông Lê Nghi
Bình tham gia Chi đội 16. Bà Kim Anh và cô học trò dạy bình dân học vụ tại Phú
Mỹ. Bà Kim Anh khéo tay, làm ra nhiều loại bánh trái ngon, tặng cho cán bộ, bộ
đội, trong đó có loại bánh trái cây mà anh em đã công tác ở vùng này đều được
thưởng thức, hương vị khó quên. Bộ trang phục màu lam mà bà Kim Anh và đệ tử
mặc lúc tu hành ở Chùa Giữa vẫn lưu lại trong giới tăng ni phật tử ở Thị Vải
cho đến bây giờ.
Phấn khởi trước
bước phát triển của cách mạng, đồng bào các xã khu vực lộ 15 đã hăng hái tham
gia các phong trào chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm; xài giấy bạc Cụ
Hồ; thực hiện đời sống mơí, chống mê tín dị đoan. Các đoàn thể cứu quốc ở mỗi
xã đều phối hợp chặt chẽ trong phong trào bình dân học vụ, tổ chức ra từ một
đến hai lớp “Bình dân học vụ” để góp phần xóa nạn mù chữ và từng bước mở mang
dân trí. Các lớp học chủ yếu học về ban đêm. Không ít gia đình đã nhiều đời mù
chữ, lần đầu tiên được Đảng tổ chức cho học chữ, đồng bào càng tin tưởng, phấn
khởi, tự giác học tập. Đến cuối năm 1948, đại bộ phận nhân dân trong các xã đều
biết đọc, biết viết.
Mặc dù đời sống của
nhân dân vùng lộ 15 rất chật vật khó khăn, nhưng đồng bào hết sức tự giác tham
gia phong trào hũ gạo nuôi quân, trước mỗi bữa ăn, mỗi gia đình đều dành một
vốc hoặc một lon sữa bò (gạo, mì, bắp…) vào hũ gạo nuôi quân để đáp ứng kịp
thời mỗi khi có cán bộ, lực lượng vũ trang về xã để công tác và chiến đấu. Hội
phụ nữ, hội mẹ chiến sĩ đã tổ chức kết nghĩa giữa hội phụ nữ với các đơn vị vũ
trang đóng tại địa bàn. Hội phụ nữ, hội mẹ chiến sĩ thực sự là tổ ấm cho cán bộ
và chiến sĩ sau mỗi đợt công tác và chiến đấu. Phong trào xây dựng nếp sống mới
được phát động, đội văn nghệ các xã với nhiều chương trình phong phú, thường
xuyên phục vụ nhân dân. Các đội tuyên truyền xung phong của tỉnh về tận làng xã
tuyên truyền vận động đồng bào, tổ chức lễ cưới theo nếp sống mới, tổ chức khám
bệnh cho đồng bào, thay cho các hủ tục lên đồng, bói quẻ.
Phong trào thiếu
nhi cứu quốc phát triển. Nhiều em thiếu nhi được cử đi học trường Thiếu sinh
quân của tỉnh mở tại Long Mỹ và được phân công trở về địa phương, đảm nhiệm
công tác liên lạc, quân báo, nắm tình hình địch, rải truyền đơn. Các em hăng
hái tham gia phong trào xóa mù chữ, đa số thiếu nhi đều biết chữ. Đồng bào dân
tộc Châu Ro ở Hắc Dịch cũng tích cực hưởng ứng phong trào xóa mù chữ. Cuối năm
1948, theo báo cáo của Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh, hơn 80% đã thoát nạn
mù chữ, đồng bào tích cực tăng gia sản xuất, nhưng cuộc sống vô cùng khó khăn
vì giặc Pháp khủng bố ráo riết.
Cùng với bước phát
triển chung của phong trào kháng chiến toàn tỉnh, hệ thống chính quyền từ quận
đến các xã từng bước được củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động. Ủy ban Hành
chính tỉnh Bà Rịa được cải tổ thành Ủy ban Kháng chiến Hành chính từ ngày 13
tháng 4 năm 1948. Ngay sau đó, Ủy ban Kháng chiến Hành chính các quận và làng
lần lượt thành lập. Tỉnh Bà Rịa khi ấy có 49 làng, 67.039 dân, trong đó quận
Vũng Tàu có 19 làng, 14.359 dân.
Ủy ban Kháng chiến
Hành chính tỉnh Bà Rịa quyết định điều chỉnh lại địa giới cho phù hợp với tình
hình và yêu cầu kháng chiến. Sau những trận càn quét và khủng bố dã man của
thực dân Pháp tại khu vực lộ 2, đồng bào các làng Quảng Giao, La Vân, Bình Giã
phải tản cư triệt để, phần lớn đồng bào dân tộc Châu Ro ở La Vân tản cư về Hắc
Dịch. Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh quyết định sáp nhập làng La Vân vào
làng Hắc Dịch (theo Quyết định số 36/TV ngày 6/6/1948 của Ủy ban Kháng chiến
Hành chính tỉnh).
Theo đề nghị của Ủy
ban Kháng chiến Hành chính tỉnh, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ đã ra
Nghị định số 302/ND-NB ngày 11 tháng 9 năm 1948 chuẩn y thành phần Ủy ban Kháng
chiến Hành chính các quận. Ông Nguyễn Đăng Khoa được phê chuẩn là Chủ tịch Ủy
ban Kháng chiến Hành chính Quận Vũng Tàu; ông Trương Minh Luân là Phó Chủ tịch;
ông Nguyễn Ngọc Châu là Tổng Thư ký; ông Lê Xuân Phương là Ủy viên phụ trách
Kinh tế-tài chính; ông Châu Kim Thời là Ủy viên phụ trách dân quân.
Quận củng cố bộ máy
Ủy ban Kháng chiến Hành chính các xã, chỉnh đốn đội ngũ cán bộ các ngành, phát
triển lực lượng vũ trang, động viên toàn dân tham gia kháng chiến. Ngày 2 tháng
9 năm 1948 tại căn cứ Bà Trao-Núi Nứa, Quận ủy tổ chức buổi lễ kỷ niệm ngày
Quốc khánh, có triển lãm vũ khí, đạn dược thu được của địch và biểu diễn văn
nghệ, phát động phong trào thi đua yêu nước, giết giặc lập công. Nhân dân các
xã Phú Mỹ, Hội Bài, Phước Hòa về tham dự rất đông. Cũng trong dịp này, Quận ủy
đã chỉ đạo mở hội nghị tổng kết công tác đoàn thể, rút kinh nghiệm về tổ chức
lực lượng dân quân tự vệ các xã và cơ sở. Hầu hết các xã trong quận đều lập
được dân quân tự vệ, đoàn thể thanh niên cứu quốc, phụ nữ cứu quốc, với hình
thức hoạt động ngày càng phong phú.
Theo đề nghị của Ủy
ban Kháng chiến Hành chính tỉnh, nhiều cán bộ và quần chúng có đóng góp trong
những năm đầu kháng chiến đã được Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ khen
thưởng dưới nhiều hình thức. Nghị định 240/NB-NĐ ngày 21 tháng 8 năm 1948 đã
quyết định thưởng Huy hiệu kháng chiến cho nhiều cán bộ nhân viên, trong đó có
Bùi Văn Chính (tức Chín Đỏ), Ủy viên quân sự làng Phú Mỹ. Nhiều người được tặng
Bằng khen của Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ, trong đó có Nguyễn Hào
Cường, Trưởng trạm C Thủy lâm lưu động làng Phú Mỹ; Nguyễn Văn Tâm, trưởng trạm
giao thông liên lạc Phú Mỹ; Nguyễn Công Thám, nhân viên trạm giao thông liên
lạc Phú Mỹ.
Phong trào du kích
chiến tranh ở quận từ giữa năm 1948 cũng có bước phát triển mới. Ban chỉ huy
quận đội dân quân Vũng Tàu được thành lập do ông Châu Kim Thời phụ trách. Quận
đội dân quân tích cực đẩy mạnh chiến tranh du kích, chống càn, bảo vệ làng xóm,
bảo vệ mùa màng. Hưởng ứng chủ trương của Tỉnh đội dân quân các Ủy viên Dân
quân quận và xã đã phát động phong trào luyện tập võ thuật, sử dụng các loại vũ
khí thô sơ, được dân quân mở 10 lớp huấn luyện, trong đó có một lớp mở tại Phú
Mỹ, 2 lớp ở quận Vũng Tàu, đào tạo 40 cán bộ Thôn đội trưởng và một lớp bổ túc
40 người, đào tạo cán bộ Thôn đội trưởng cho tất cả các xã.
Lực lượng du kích
xã phát triển nhanh, mỗi xã đều có hai trung đội đến một đại đội dân quân, từ
một đến hai tiểu đội du kích tập trung. Các Ủy viên Ban chấp hành đoàn thể cứu
quốc đều tham gia Ban chỉ huy dân quân. Đoàn trưởng Thanh niên Cứu quốc xã là
chính trị viên xã đội dân quân. Du kích tập trung mỗi xã từ một đến hai tiểu
đội, trang bị vũ khí. Phong trào du kích chiến tranh được phát động rộng khắp,
với tinh thần “tĩnh là dân, động là quân”. Các xã đều thành lập Ban chỉ huy xã
đội; quận có Ban chỉ huy quận đội.
Nhằm đẩy mạnh phong
trào du kích chiến tranh, Trung đoàn 307 chọn đồn Xà Bang làm mục tiêu ra quân
trận đầu. Đồng thời với mũi tiến công của bộ đội, các gia đình công nhân trong
sở đã nổi dậy đốt toàn bộ nhà xưởng. Hơn 500 gia đình công nhân trong sỏ đã
chuẩn bị sẵn phương tiện xe bò và gồng gánh, được bộ đội bảo vệ đưa ra vùng căn
cứ kháng chiến. Một phần lớn thanh niên công nhân cao su đã tham gia lực lượng
vũ trang. Nhiều người lớn tuổi, có tay nghề cũng xin vào quân giới. Hơn 50 công
nhân có tay nghề người được đưa về Trường Quân chính Khu 7, khi đó cũng vừa
chuyển về Phú Mỹ.
Quận Vũng Tàu tập
trung xây dựng bộ đội quận, bước đầu rút du kích các xã, được 14 chiến sĩ, do
đồng chí Kim chỉ huy, trang bị 9 khẩu súng (6 súng trường, 3 súng ngắn), chủ
yếu làm nhiệm vụ diệt tề trừ gian và vũ trang tuyên truyền). Mặc dù vũ khí ít
và cán bộ chỉ huy còn thiếu kinh nghiệm, song bộ đội địa phương Vũng Tàu đã
phối hợp với bộ đội chủ lực liên tục chống địch càn quét lộ 15, bảo vệ vùng
giải phóng Phú Mỹ.
Tháng 10 năm 1948,
tại căn cứ khu Tây, các Chi đội 2, Chi đội 3, Chi đội 9 và một phần Chi đội 21
được tổ chức lại thành Trung đoàn 309, theo hướng củng cố và xây dựng lực lượng
vũ trang vững mạnh, đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng. Sau khi thành lập,
Trung đoàn ra quân diệt đồn Phước Lý và liên tục đánh giao thông địch, làm chủ
lộ 15, hỗ trợ cho phong trào du kích chiến tranh của địa phương.
Tháng 10 năm 1948,
hội nghị đại biểu Đảng bộ tỉnh Bà Rịa chủ trương tiếp tục đẩy mạnh công tác
phát triển đảng; củng cố các đoàn thể quần chúng, xây dựng lực lượng vũ trang,
đánh địch bảo vệ căn cứ; xây dựng cơ sở trong vùng địch, vận động các tầng lớp
nhân dân phối hợp phá tế, trừ gian. Các Quận ủy cũng được củng cố, đồng chí Lê
Đình Y làm Bí thư quận Vũng Tàu.
Do khó khăn về tài
chính, thiếu hụt ngân sách, năm 1948, Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh chủ
trương đóng dấu ký tên vào giấy bạc đỏ, để cho phép lưu hành trong vùng giải
phóng, không cho giấy bạc đỏ của vùng giặc kiểm soát tràn vào vùng ta. Đồng chí
Dương Ngọc Văn, Phó Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh về huyện Vũng
Tàu ký tên và đóng dấu vào giấy bạc đỏ lưu hàng trong huyện. Mặt trận Việt Minh
quận, xã và các đoàn thể đã tích cực vận động các tầng lớp nhân dân sử dụng
giấy bạc đỏ có đóng dấu của Ủy ban, ủng hộ quỹ nuôi quân, vận động nhân dân
trong vùng căn cứ khai hoang tăng gia sản xuất để có lương thực tại chỗ. Địa
bàn lộ 15 trở thành căn cứ khu Tây, là chỗ vựa tin cậy cho phong trào kháng
chiến của toàn tỉnh, của Khu 7 và cả Nam Bộ.
Công binh xưởng của
Chi đội 7 được chuyển giao cho Phòng quân giới Nam bộ từ tháng 2 năm 1948/
trưởng phòng quân giới Kiều Đắc Thắng đã tăng cường thêm máy móc, đưa cán bộ
chuyên môn về, xây dựng Công binh xưởng Nam bộ tại Phú Mỹ (mật danh là tiểu
đoàn 1192), các xưởng được bố trí trên địa bàn từ núi Ông Trịnh qua Tóc Tiên,
Eo Ông tới Đá Bàn. Phòng quân giới Nam bộ tổ chức lại thành 6 phân
xưởng mang phiên hiệu A-B-C-D-E-F:
· Phân
xưởng A: Tiện, phay, bào; đóng ở bưng Cây Sổ;
· Phân
xưởng B: đúc vỏ lựu đạn, đóng ở Suối Cả (Phú Mỹ);
· Phân
xưởng C: chế ngòi nổ;
· Phân
xưởng D: lắp ráp; cả 2 Phân xưởng này đóng ở núi Ông Trịnh;
· Phân
xưởng E: làm khuôn đúc;
· Phân
xưởng F: lò rèn; cả hai đóng ở Trảng Lớn (Phú Mỹ);
· Văn
phòng Phòng quân giới Nam
bộ đóng ở Đồng Lim (nay là ấp Việt Kiều, Phú Mỹ).
Ngay từ những ngày
đầu về Phú Mỹ, Phòng quân giới Nam bộ đã nhận được sự giúp đỡ của Đảng bộ,
chính quyền và nhân dân địa phương, với những sản phẩm của một vùng quê còn
nghèo khó: bắp, khoai, mì, tôm, cá. Hơn 30 người thợ rèn, thợ thủ công, ở Phú
Mỹ, Phước Hòa, Hội Bài đã gia nhập Công binh xưởng Nam bộ. Nhân dân Phú Mỹ, Hội
Bài giúp Phòng quân giới Nam bộ huy động ghe qua Vàm Láng (Gò Công) mua gạo,
mắm. Dân quân, du kích các xã còn lượm đầu đạn, sắt vụn làm lựu đạn, thép chữ L
góp cho Phòng quân giới làm đế súng DKZ.
Cũng trong thời
gian này, theo chỉ thị của Xứ ủy, Bộ tư lệnh Khu 7 quyết định đưa Trường quân
Khu 7 chuyển về Phú Mỹ nhằm kết hợp đào tạo cán bộ cho các tỉnh Cực Nam Trung
bộ, giúp Cực Nam Trung bộ mở Trường quân chính khóa I tại tỉnh Bình Thuận.
Khóa học mới mang
tên Khóa Phan Chu Trinh, huấn luyện bổ túc chính trị và quân sự cho cán bộ
trung đội, đại đội, tiểu đoàn và một bộ phận đào tạo cán bộ cấp quận đội. Lượng
lực học viên chiêu sinh cho khóa Phan Chu Trinh gần 300 người, cán bộ, nhân
viên của trường 200 người. Công tác bảo đảm cho vài trăm con người trong buổi
đầu xây dựng là hết sức khó khăn, nhất là ở một địa bàn thường xuyên thiếu
lương thực thực phẩm.
Trường được xây
dựng tại suối Bến Tàu (Phú Mỹ), bên một trảng lớn, cách lộ 15 khoảng hai cây
số, trong một cánh rừng già, có suối lớn để làm bến tắm, gần đó có một trảng
rộng làm thao trường luyện tập. Để có cơ sở đào tạo, Ủy ban Kháng chiến Hành
chính tỉnh huy động dân công để xây dựng nhà trường. Hơn 200 dân công xã Phú Mỹ
và các xã Nam-Bắc lộ 15 đã được huy động trong gần hai tháng. Đồng bào góp hơn
một vạn ngày công , đem theo lương thực thực phẩm đủ ăn, dựng lán ở tạm để xây
dựng doanh trại cho nhà trường với cơ sở cho hơn 200 cán bộ khung nhà trường
cùng nơi ăn ở, học tập cho gần 300 học viên.
Học viên khóa Phan
Chu Trinh chiêu sinh từ các đơn vị trong tỉnh, các đơn vị vùng Duyên Hải, các
đơn vị Bình Xuyên, gần hai mươi học viên của Trung đoàn 81-82 từ Cực Nam Trung
bộ cử vào theo chỉ đạo của đồng chí Lê Duẩn. Đây là số cán bộ cốt cán để xây
dựng Trường Quân chính Cực Nam Trung bộ.
Bên cạnh việc đào
tạo, Trường Quân chính Khu 7 còn tổ chức thu nhận công nhân viên vào sản xuất
tự túc và góp phần phát triển kinh tế ở vùng căn cứ khu Tây. Trường mở xưởng
dệt do đồng chí Lê Du phụ trách, tổ chức thu mua bông từ Bằng La, Phước Chí về,
dệt vải tự túc. Hội Phụ nữ cứu quốc Phú Mỹ và nhiều ni cô trong các chùa trên
núi Thị Vải cũng tham gia sản xuất. Ngoài ra trường còn tiếp nhận 30 công nhân
cao su tình nguyện đến trường xin đầu quân. Họ được bố trí vào bộ phận làm kinh
tế tự túc. Trên cơ sở đội ngũ công nhân này, trường đã lập một xưởng dệt vải
phục vụ nhu cầu mặc của cán bộ, nhân viên nhà trường. Sau khi trường chuyển về
Chiến khu Đ, xưởng dệt và các cơ sở sản xuất được chuyển giao cho tỉnh quản lý.
Tham gia xây dựng,
bảo vệ và góp phần vào hoạt động của Trường Quân chính Khu 7 cũng như đối với
Phòng quân giới Nam bộ, nhân dân vùng căn cứ khu Tây đã góp một phần công sức
vào cuộc kháng chiến chống Pháp của khu vực Miền Đông Nam bộ cũng như đối với
toàn miền.
Phú Mỹ khi đó là
một đầu mối giao thông liên lạc quan trọng của tỉnh. Đây là cửa ngõ đón tiếp
các đoàn cán bộ từ Trung ương và miền Trung vào tăng cường chỉ đạo Nam bộ; Đoàn
của Xứ ủy và các Đại biểu Nam bộ ra Bắc dự hội nghị; đoàn của Ban cán sự Cực
Nam Trung bộ công tác… Trong điều kiện thiếu nhân viên, đời sống rất thiếu
thốn, cán bộ nhân viên Trạm giao liên Phú Mỹ vẫn hoàn thành tốt nhiệm vụ, đón
tiếp khách chu đáo, bảo đảm an toàn lộ trình đưa đón khách.
Trong điều kiện
thiếu thốn nhiều mặt ở căn cứ khu Tây, đồng bào dân tộc Châu Ro ở Hắc Dịch đã
cung cấp cho Phòng bào chế Đông y của tỉnh nhiều loại dược liệu, mỗi tháng sản
xuất được: 5.500 viên thuốc xổ, 2 lít thuốc kiết lỵ, 2 lít thuốc ho và 35.000
viên Kinita (một dạng Quinine làm bằng dây thần thông) để cung cấp cho các trạm
cứu thương. Nhân dân Phú Mỹ –Hắc Dịch còn đóng góp hàng chục ngàn ngày công,
cưa cây mở 2 cây số đường căn cứ từ Phú Mỹ qua Hắc Dịch đi Long Kiên (nay là
Hòa Long thuộc thị xã Bà Rịa) để đảm bảo yêu cầu vận chuyển phục vụ hoạt động
trong vùng căn cứ.
Theo yêu cầu của
tỉnh và của quận, Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể cách mạng các xã còn tổ
chức và huy động lực lượng dân quân du kích và nhân dân đi dân công, tiếp
lương, tiếp đạn, tải thương khu Đông (căn cứ Xuyên Phước Cơ) hoặc về chiến khu
D, và làm liên lạc dẫn đường cho các đơn vị chủ lực chuyển quân, chiến đấu.
Nhiều giao liên người dân tộc Châu Ro ở xã Hắc Dịch hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ đưa đón cán bộ, chiến sĩ giữa khu đông và khu Tây được nhiều cán bộ chiến sĩ
quý mến như các ông Dương Văn Giám, Dương Văn Trọc người dân Châu Ro ở Hắc
Dịch./.
Bài 10
Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh điều chỉnh lại địa
giới các xã, trên địa bàn huyện Vũng Tàu
____________________________
Từ năm 1949, hệ
thống chính quyền các xã trong huyện có sự điều chỉnh lớn, các quận đều đổi
thành huyện. Tháng 6 năm 1949, nhiều cán bộ chủ chốt của các xã được cử tham dự
lớp huấn luyện nghiệp vụ hành chính do tỉnh tổ chức, nâng cao trách nhiệm và
năng lực quản lý chính quyền. Giữa năm 1949, Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh
điều chỉnh lại địa giới các xã, trên địa bàn huyện Vũng Tàu, tỉnh quyết định
sáp nhập các xã Sơn Long, Sơn Hòa, Sơn Hiệp thành xã Thống Nhất; nhập các xã
Hội Thạnh, Hội Bài A, Hội Bài B thành xã Đoàn Kết; nhập các xã Bàn Thạch, Phước
Tấn Và Phước Long thành xã Tân Thành; nhập hai xã Long Xuân và Phước Hòa thành
Xuân Hòa. Sau khi sáp nhập, Huyện Vũng Tàu gồm 11 xã, trong đó có 4 xã thuộc
huyện Tân Thành ngày nay là: Tân Thành, Đoàn Kết, Xuân Hòa, Phú Mỹ. Xã Hắc Dịch
thuộc huyện Long Điền. Căn cứ Huyện Vũng Tàu đặt tại xã Đoàn Kết (suối Nước
Ngọt).
Địa giới xã Xuân
Hòa từ ấp Hội Bài hiện nay đến cầu Rạch Váng (trong đó có Cá Liệt, Dòng Than,
Láng Cát). Dân số xã khoảng 70 hộ, khoảng 300 khẩu, diện tích canh tác hẹp, chủ
yếu trồng màu. Dân sống chủ yếu bằng nghề đốn củi, bắt tôm, cua, cá, múc dầu
chai, hầm than… Ông Nguyễn Văn Thanh là Chủ tịch Mặt trận Liên Việt xã Xuân
Hòa.
Xã Đoàn Kết gồm các
ấp: Hội Bài A (ngã tư Hội Bài), Hội Bài B (Đá Văng, xóm cũ), Hội Thạnh (ấp cù
lao), dân số khoảng 100 hộ, 400 khẩu, nghề chính của đồng bào là đốn củi, hầm
than, múc dầu chai, đánh bắt tôm, cua, cá, diện tích canh tác không nhiều,
khoảng 30 ha, chủ yếu trồng màu, xen kẽ từng khoảnh (không liền canh). Trụ sở
Ủy ban Kháng chiến Hành chính xã Đoàn Kết đặt tại mé Rừng Sác, (nay là ấp Hải
Sơn). Chi bộ xã Đoàn Kết có 20 đảng viên, Chi ủy có các đồng chí: Phạm Văn Tui
(Tư Tui), Bí thư Chi bộ; Trương Văn Tới, Phó bí thư Chi bộ; Nguyễn Văn Tý, Thư
ký; Bùi Văn Xuyên, Ủy viên; Trương Văn Dụ (Tư Dụ), Ủy viên; Bùi Văn Thường, Ủy
viên. Đồng chí Bùi Văn Thường là đảng viên được kết nạp đầu tiên của xã Đoàn
Kết. Ủy ban Kháng chiến Hành chính xã Đoàn Kết gồm: Ông Phạm Văn Di (Sáu Di) là
Chủ tịch; Ông Nguyễn Văn Nguyệt là Phó chủ tịch; Ông Phạm Văn Tui (Tư Tui) là
Tổng thư ký; Ông Huỳnh Văn Trụ (Tư Trụ) là Ủy viên quân sự; Ông Bùi Ngọc Bực là
Phó ủy viên quân sự; Ông Bùi Văn Kiệp (Sáu Kiệp) là Trưởng công an. Ông Nguyễn
Văn Màng (Hai Màng) là Chủ tịch Mặt trận Việt Minh. Ông Bùi Văn Hai là Xã đội
trưởng, ông Phạm Văn Sỏi là Chủ tịch Mặt trận Liên Việt.
Xã Tân Thành gồm
các ấp: Ông Trịnh, Phước Tân (Bàn Thạch), Phước Long (gần ngã tư Hội Bài), dân
số khoảng 60 hộ, trên dưới 200 khẩu, nghề chính đốn củi, hầm than, múc dầu
chai, đánh bắt tôm, cua, cá để sinh sống. Trụ sở Ủy ban Kháng chiến Hành chính
xã Tân Thành đặt tại Cây Lim-Bến Ván thuộc Ông Trịnh. Ủy ban Kháng chiến Hành
chính xã Tân Thành gồm các đồng chí Nguyễn Văn Nhọ là Chủ tịch kim Bí thư Chi
bộ; Phạm Văn Nghĩa (Sáu Nghĩa) là Phó Chủ tịch; anh Hồng là Thư ký; Ông Văn Hòa
(Hai Quạ) là Trưởng công an; Đặng Văn Hiếu là Xã đội trưởng; Nguyễn Văn Quốc
(Tám Quốc) là Xã đội phó. Xã Tân Thành có một bãi thao trường rộng lớn để các
đơn vị chủ lực, dân quân du kích trong tỉnh và huyện thường xuyên về luyện
quân, thao diễn hợp đồng kỹ chiến thuật chiến đấu và bắn súng. Xã Tân Thành còn
có một trảng lớn ở khu vực ấp Ông Trịnh, làm nơi bộ đội luyện quân. Đồng Lớn
Phú Mỹ là nơi tổ chức mít tinh, biểu diễn văn nghệ và triển lãm, trưng bày vũ
khí do ta tự chế tạo và chiến lợi phẩm của địch ta chiếm được trong các trận
đánh. Đây cũng là nơi diễn ra lễ thành lập Trung đoàn 397, tiểu đoàn 300.
Xã Hắc Dịch và xã
Phú Mỹ vẫn giữa nguyên địa giới. Xã Phú Mỹ có các ấp Mỹ Xuân, ấp Bào Rong (nay
là ấp Phú Hòa) và Phú Thạnh. Dân số hơn một ngàn người. Chi bộ Phú Mỹ là một
trong những chi bộ mạnh của huyện, năm 1948 có tới 52 đảng viên. Ban Quân nhu
của tỉnh đưa lực lượng về tổ chức đầu mối thu mua gạo từ Gò Công về Phú Mỹ. Xã
Hội Thạnh, khi đó là ấp Hội Thạnh (xóm Cù Lao) xã Đoàn Kết là đầu mối giao
thông liên lạc của tỉnh và của huyện Vũng Tàu về Vàm Láng (Gò Công) mua lúa. Đi
ghe chỉ một đêm là tới. Dân Hội Thạnh lúc nào cũng có sẵn ghe, thường trực vài
chục người, sẵn sàng nhận lệnh đưa đón cán bộ, bộ đội đi công tác.
Trụ sở Ban quân nhu
đóng ở bến Bà Phóng. Ban quân nhu tổ chức lực lượng xay lúa tại đình Phú Thạnh,
cung cấp gạo cho lực lượng vũ trang. Phú Mỹ khi đó là một “nhà máy xay” lớn ,
cung cấp cho cả vùng căn cứ khu Tây. Gọi là “nhà máy xay” nhưng toàn bộ công
việc đều làm thủ công. Ngoài lực lượng chủ lực của Phú Mỹ, Hội Phụ nữ cứu quốc
các xã Tân Thành, Đoàn Kết huy động các má, các chị đến tham gia xay giã, sàng
sảy lúa gạo phục vụ kháng chiến.
Phụ nữ xã Phú Mỹ
vừa đảm đang việc nhà, vừa hăng hái tham gia việc nước. Mỗi ngày có hàng trăm
chị em tham gia công việc xay giã gạo. Nhiều chị em phụ nữ ở Phú Mỹ hoạt động
tích cực trong Ủy ban Kháng chiến Hành chính và các đoàn thể cách mạng xã như
các chị Hứa Thị Tới (ủy viên xã hội), Nguyễn Thị Kiềm (ủy viên quân sự); Lê Thị
On (ủy viên tài chính xã), chị Trần Thị Yến (Hội trưởng Hội phụ nữ đỡ đầu chiến
sĩ), chị Huỳnh Thị Hai Hội phó Hội phụ nữ cứu quốc xã; Chị Lê Thị Nhung (ủy
viên Ban chấp hành Hội Phụ nữ cứu quốc xã), chị Phan Thị Năm (thư ký Phụ nữ cứu
quốc), bà Nguyễn Thị Tình (Hội trưởng Hội mẹ chiến sĩ)…
Xã Hắc Dịch vẫn
trực thuộc sự chỉ đạo của huyện Long Điền. Đồng chí Đặng Trung Tín, Bí thư chi
bộ xã Hắc Dịch; đồng chí Dương Văn Khuê người dân tộc Châu Ro là Chủ tịch Ủy
ban Kháng chiến xã; đồng chí Dương Văn Dễ (dân tộc Châu Ro) là Phó chủ tịch Ủy
ban Kháng chiến xã; đồng chí Nguyễn Văn Vận (Tám Vận) là Chủ tịch Mặt trận Liên
Việt xã, đồng chí Nguyễn Văn Quế (Tư Quế) là xã đội trưởng; đồng chí Nguyễn Văn
Đặng là xã đội phó (1952-1954); đồng chí Dương Văn Bê (dân tộc Châu Ro) là xã
đội phó; đồng chí Dương Văn Thạng (dân tộc Châu Ro): Xã đội phó; đồng chí
Nguyễn Văn Điệp: Trưởng công an xã; đồng chí Phạm Văn Đường (Tư Đường) là
Trưởng Ban thông tin tuyên truyền xã.
Xã Hắc Dịch có 4
ấp: Cây Dầu (nay là trụ sở Ủy ban nhân dân xã), Thống Nhất (nay là ấp 2, vị trí
nông trường), Châu Pha và ấp Lò. Ấp Lò nằm ở phía Châu Pha, cách ấp Thống Nhất
hơn một cây số, có lò rèn cung cấp công cụ xuất sắc cho đồng bào và là nơi sản
xuất vũ khí thô sơ, cung cấp cho các lực lượng kháng chiến. Dân Hắc Dịch sinh
sống tập trung ở ấp Thống Nhất. Bộ đội, cơ quan tỉnh về sản xuất đều đóng ở
đây. Ấp Thống Nhất được xem là thủ đô của Hắc Dịch khi đó.
Trong xã Hắc Dịch,
hàng rào chiến đấu được xây dựng ở tất cả các ấp, bao quanh xã, bao đến đồng
Don, đồng Dầu, đồng Châu Pha để bảo vệ sản xuất, có bàn chông, hố chông, gài
lựu đạn, địa lôi. Tới vụ thu hoạch, Bọn OR (Đội Ngay, Đội Cẩn, thay Một Mun) từ
Bà Rịa thường đột kích lên Châu Pha. Bộ đội địa phương và dân quân du kích đều
huy động ra đồng, bảo vệ sản xuất, bố trí đánh địch cho đồng bào thu hoạch.
Tiểu đoàn 300 cũng đưa lực lượng về bảo vệ sản xuất. Đồng Châu Pha lúa rất tốt.
Nhân dân Hắc Dịch chí cố cách mạng, gặt xong, chỉ chở lúa về đủ ăn, còn lại để
đó cho bộ đội chuyển về vùng căn cứ.
Đội du kích xã Hắc
Dịch hoạt động mạnh, là lực lượng chủ lực xây dựng làng chiến đấu, giao liên
đưa đường cho cán bộ, bộ đội. Nhiều thanh niên dân tộc Châu Ro ở xã Hắc Dịch đã
tham gia tích cực trong Đội võ trang tuyên truyền vùng lộ 2 của tỉnh do đồng
chí Nguyễn Văn Thanh (người Long Phước) chỉ huy. Đội võ trang tuyên truyền có
trang bị nhẹ, chủ yếu là súng trường và tiểu liên. Nhiệm vụ chính của đội võ
trang tuyên truyền là luồn sâu vào vùng tạm chiếm (công nhân cao su) để tuyên
truyền, phổ biến đường lối cách mạng của Đảng, của chính quyền kháng chiến
trong giai cấp công nhân; thu thập tình hình quân sự của địch, tin tức tình báo
cung cấp cho cấp trên.
Sau khi cắt đứt lộ
15, Tỉnh ủy chỉ đạo tiếp tục phá hoại giao thông địch trên lộ 2. Đồng chí Hứa
Văn Đạt (tức thầy giáo Đạt), ủy viên Ủy ban Kháng chiến Hành chính huyện Long
Điền và đồng chí Lê Văn Thâm, huyện đội phó dân quân Long Điền được cử về Hắc
Dịch vận động đồng bào đi phá lộ. Đồng bào dân tộc Châu Ro xã Hắc Dịch ở phân
tán, làm rẫy, lội rừng lấy mật ong, múc dầu chai. Khi được giác ngộ thông suốt,
đồng bào tập hợp lại rất đông, tổ chức thành các đội quân phá lộ rất quyết
liệt, ngày đi làm rẫy, đêm phá lộ. Đồng bào còn tham gia giao liên, cắt rừng
rất giỏi. Liên lạc giữa căn cứ khu Đông và căn cứ khu Tây, từ căn cứ khu Tây về
Chiến khu Đ thông suốt.
Tổ chức của Mặt
trận Liên Việt và các đoàn thể cứu quốc đã phát triển ngày càng lớn mạnh. Được
sự lãnh đạo chặt chẽ của cấp ủy, Mặt trận Liên Việt chỉ đạo các đoàn thể cứu
quốc phối hợp chặt chẽ trong mọi công tác dân vận, đã gây được phong trào thi
đua mạnh mẽ./.
Bài 11
Thành lập bộ đội địa phương bảo vệ khu căn cứ
___________________________
Sự phát triển của
phong trào kháng chiến ở căn cứ khu Tây khiến cho thực dân Pháp hết sức lo
ngại. Theo báo cáo chung niên của Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Bà Rịa,
trong năm 1949, thực dân Pháp đã gia tăng các cuộc hành quân càn quét từ 30
cuộc trong tháng 1 năm 1949 lên 80 cuộc trong tháng 5 năm 1949. đáng chú ý là
cuộc đột kích bằng không quân và hải quân vào Phú Mỹ trong tháng 3 và tháng 4
năm 1949; cuộc càn quét khủng bố lớn vào Phước Thiện-Phú Mỹ tháng 10 năm 1949
và cuộc càn quét quy mô lớn từ ngày 16 đến ngày 19 tháng 11 năm 1949 vào vùng
căn cứ Bà Trao-Phú Mỹ. Chúng tổ chức nhiều đội biệt kích ác ôn gồm những tên
đầu hàng phản bội, có thâm thù kháng chiến kết hợp với bọn biệt kích commandos
ở Long Thành đột kích sâu vào vùng căn cứ, đốt phá nhà cửa, hoa màu và gia súc.
Theo quyết định của
Khu 7, Trung đoàn 307 và Trung đoàn 309 được sáp nhập thành Trung đoàn 397.
Trung đoàn bộ và phần lớn các đơn vị đóng tại căn cứ khu Tây. Trung đoàn 397
củng cố Binh công xưởng (mật danh là “Bộ đội Lý Chính Thắng”). Binh công xưởng
Trung đoàn có ba trung đội sản xuất chuyên ngành mang bí danh A, B, C làm nhiệm
vụ sửa chữa súng ống, làm được vỏ đạn, đúc mìn và lựu đạn, chế tạo hoàn chỉnh
mìn và lựu đạn.
Để áp ứng nhiệm vụ
bảo vệ Công binh xưởng và Phòng quân giới Nam bộ, huyện đã rút du kích các xã
thành lập một trung đội du kích tập trung mang tên Hoàng Hoa Thám, quân số 40
đồng chí, với nhiệm vụ chủ yếu là bảo vệ Phòng quân giới Nam bộ, bảo vệ vùng
căn cứ, kết hợp làm công tác phong trào. Du kích Phú Mỹ là nòng cốt trong đội
du kích tập trung Hoàng Hoa Thám. Đây là lực lượng tiền thân của bộ đội địa
phương huyện Vũng Tàu.
Đội du kích tập
trung đã phối hợp với các lực lượng vũ trang đóng trên địa bàn đánh địch, chống
càn. Ngày 22 tháng 3 năm 1949, thực dân Pháp cho 8 chiếc máy bay đacôta đổ quân
nhảy dù xuống các trảng trống, đồng thời tàu chiến địch đổ quân lên các bến
ghe, đốt phá nhà cửa và cướp bóc heo gà và đồ đạc của dân.
Đội du kích tập
trung cùng du kích Phú Mỹ và chi đội 25, bộ đội Hoàng Thọ phục kích tại các
điểm xung yếu, từ 8 giờ sáng đến 16 giờ chiều, đánh bật cả quân dù lẫn quân bộ
ra khỏi xã. Thực dân Pháp phải thu quân xuống tàu rút về Bà Rịa.
Thực hiện chủ
trương xây dựng làng chiến đấu, huyện Vũng Tàu phát động các xã vót thêm nhiều
chông tre dài, cắm dày đặc trên các trảng lớn, chống quân Pháp nhảy dù. Các cửa
sông lớn đều được tăng thêm cọc cắm, làm rào cản vững chắc, có gài thủy
lôi ngăn tàu giặc đổ bộ. Nhân dân Phú Mỹ, Hội Bài chặt hàng vạn cây cọc lớn
chặn tất cả các cửa sông. Các trảng lớn ở Phú Mỹ, nhân dân đã đốn cây vạt nhọn
2 đầu cắm chông để chống địch nhảy dù.
Tháng 4 năm 1949
thực dân Pháp tập trung tàu chiến càn vào Phú Mỹ. Chúng đổ quân lên các cửa
sông, bến ghe, bến đình Phú Thạnh, bến cây Cui Mỹ Xuân, bến cây me ấp Bào Rong
(nay là ấp Phú Hà), với sự yểm trợ của 4 máy bay khu trục ném bom dọc trục lộ
15 và đổ quân càn quét. Du kích xã Tân Thành phối hợp với du kích tập trung của
huyện và lực lượng vũ trang tỉnh đánh chìm 2 tàu của địch tại Giếng Muối Ông
Kiến (nay là ấp Phước Lộc).
Đại hội đại biểu
Đảng bộ tỉnh lần thứ 2 được tiến hành tại Bưng Riềng (Xuyên Mộc) tháng 12 năm
1949 đã chủ trương xây dựng căn cứ địa toàn diện; đẩy mạnh chiến tranh du kích,
công tác binh địch vận; xây dựng lực lượng vũ trang, mở rộng hậu phương tại chỗ
cho kháng chiến, chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công.
Bước sang năm 1950,
“Chiến thuật Đờ La Tua” của địch bắt đầu có tác dụng. Vùng du kích của ta bị thu
hẹp và bị ngăn cách với vùng bị địch tạm chiếm. Thực dân Pháp tăng cường kiểm
soát những vùng đông dân, kinh tế trù phú trong tỉnh. Những chuyển biến hết sức
bất ngờ về chiến lược, chiến thuật chiến tranh và hình thái chiến trường của
địch khiến cho các lực lượng cách mạng của tỉnh không tránh khỏi lúng túng
trong phương hướng phát triển lực lượng.
Trong lúc địch thay
đổi về chiến lược, chiến thuật thì ta chưa có những chuyển biến mới và tiến kịp
theo yêu cầu của chiến trường để đối phó tình hình; chưa phát động được chiến
tranh du kích rộng rãi để phá thế bao vây chia cắt chiến trường của địch, chưa
xây dựng được chủ lực đủ mạnh để đánh những trận vận động chiến đấu tiêu diệt
lớn. Để khắc phục được những nhược điểm, chuyển biến kịp với tình hình, thay đổi
tương quan, giành lại thế chủ động, đòi hỏi nỗ lực phấn đấu và cần phải có thời
gian.
Theo sự chỉ đạo của
Quân khu 7, tháng 8 năm 1950, bộ đội địa phương huyện Vũng Tàu đã huy động toàn
bộ lực lượng, tổ chức phá hủy tất cả các cây cầu còn lại trên lộ 15. các đơn vị
được phân công phụ trách từng địa điểm cụ thể. Tại mặt trận cầu Cây Khế, một
tiểu đội bộ binh dưới sự chỉ huy của đồng chí Đằng và đồng chí Ban yểm trợ cho
tổ công binh huyện phá cầu. Hướng cầu Rạch Bà, tiểu đội công binh huyện
do đồng chí Trần Văn Chuốt chỉ huy được sự yểm trợ của trung đội 12 bộ đội
huyện. Trung đội trưởng Nguyễn Thanh Hồng trực tiếp chỉ huy một tiểu đội chặn
đánh địch từ hướng Vũng Tàu lên, hai tiểu đội còn lại được bố trí đánh địch tại
tua gác cầu phía Bắc ngay sau khi công binh điểm hỏa, tiêu diệt sinh lực địch
và yểm trợ cho lực lượng ta rút quân.
Cầu Cỏ May là trọng
điểm chỉ đạo của đợt, là nơi đánh mở màn, đồng thời phát lệnh cho các mũi,
Huyện đội trưởng Nguyễn Tấn Thời trực tiếp chỉ huy Mặt trận này. Đại đội trưởng
Nguyễn Văn Phải bố trí hai tiểu đội gần cầu Rạch Hào, chặn địch từ hướng Bà Rịa
đánh xuống, đồng thời bố trí tiểu đội của đồng chí Nguyễn Văn Hoa làm nhiệm vụ
nắm địch và bảo vệ cho tổ công binh quân khu phá cầu.
Cầu Cỏ May do một
trung đội Pạctidăng đóng giữ canh phòng rất nghiêm ngặt. Huyện đội trưởng
Nguyễn Tấn Thời có sáng kiến đặt quả mìn 45 kg vào trong 2 cái thúng úp lại,
dùng dầu chai phết bên ngoài không cho nước rỉ vào và neo dây, thả trôi theo
dòng nước, khi mìn trôi đến chân cầu, tổ công binh châm điện đánh sập cầu vào
lúc 23 giờ 30 đêm 23 tháng 8 năm 1950. bọn lính trong đồn chưa kịp hoàn hồn,
lực lượng ta đã nổ súng mãnh liệt và rút lui an toàn.
Ngay khi trái mìn
tại cầu Cỏ May phát lệnh, các mặt trận Rạch Bà, Cây Khế, Rạch Bồng, Rạch Hào
đồng loạt châm điện và nổ súng. Cầu Cỏ May và cầu Cây Khế bị đánh sập nhịp
giữa. Cầu Rạch Bà sập nhịp phía Vũng Tàu. Hai cây cầu Rạch Bồng, Rạch Hào nhỏ
hơn bị đánh sập hoàn toàn, nằm bẹp dưới mép nước. Đây là trận hiệp đồng chiến
đấu rất hiệu quả giữa bộ đội địa phương huyện Vũng Tàu và lực lượng công binh
quân khu, đánh sập toàn bộ các cây cầu của địch trên lộ 15, đoạn Bà Rịa đi Vũng
Tàu, ngay trước thời điểm tướng Nava đi thị sát phòng thủ tại Vũng Tàu.
Trong khi phong
trào cách mạng của toàn huyện đang trên đà phát triển thì nội bộ Công an huyện
Vũng Tàu lại bị chia rẽ nghiêm trọng. Theo báo cáo của Ủy ban Kháng chiến Hành
chính tỉnh, thực dân Pháp ráo riết củng cố bộ máy kềm kẹp, ra sức tuyên truyền
cho Bảo Đại, sử dụng Cao Đài phản động để khống chế quần chúng trong vùng bị
địch tạm chiếm, tổ chức nhiều hoạt động do thám gián điệp vào vùng độc lập của
ta.
Huyện Vũng Tàu là
một điểm nóng. Nhiều tổ chức gián điệp của địch đã tổ chức mạng lưới gián điệp
đánh vào Phú Mỹ. Ngoài mạng lưới của Phòng nhì, O.R, Mật thám miền Đông Nam Bộ,
Bảy Viễn cho tay chân về tuyên truyền, phát loa, tìm mọi cách lôi kéo ông Tám
Mạnh (khi đó là cố vấn Trung đoàn 397) và Mười Lực (nguyên là bộ đội Bình
Xuyên, được bổ nhiệm là Trung đoàn trưởng trung đoàn 397); mật vụ của Cơ mật
viện Cao Đài đưa Lý Đức Lung (quan hai Cao Đài) về Vũng Tàu tổ chức nội gián.
Chúng âm mưu lôi kéo đồng chí Lê Tân, quyền Trưởng công an huyện và tung tin ly
gián trong công an huyện Vũng Tàu. Văn phòng ty giao liên của tỉnh đóng tại Rẫy
Thơm xã Phú Mỹ và nhiều cơ quan đã bị oanh tạc bằng bom Naban do bọn gián điệp
chỉ điểm, để ám hiệu trên ngọn cây.
Công an tỉnh phá
án, bắt tên Lý Đức Lung, gián điệp của Cơ mật viện Cao Đài được cài vào Công an
huyện Vũng Tàu; bắt được tên Lễ, nhân viên Quốc gia tự vệ Cuộc phản bội và phát
hiện được nhiều âm mưu nội gián của địch. Ty Công an tiến hành cải tổ: Phòng
Trinh sát đổi thành Ban Chính trị Tư pháp; Phòng Cảnh sát đặt lại là Ban Trật
tự; Phòng Quốc vệ đội đổi thành Ban Cảnh vệ. Trong chương trình cải tổ, Ty Công
an có dự án hình thành bộ phận Trinh sát nội bộ (mật danh là TBĐ, tức tình báo
đỏ) đệ trình cấp trên./.
Bài 12
Chấn chỉnh bộ máy quân – dân - chính, bảo vệ vững chắc
căn cứ khu Tây
_______________________________
Cùng trong thời
gian này, một số phần tử xấu ở Phú Mỹ, Hội Bài dựng lên chuyện có biệt kích
Pháp giả cọp lọt vào căn cứ của ta để bắt cóc ám sát cán bộ. Tin biệt kích Pháp
giả cọp hoạt động trong vùng căn cứ của ta lan truyền khắp nơi, làm cho nhân
dân Vũng Tàu hoang mang lo sợ. Trong tình hình đó, được sự nhất trí của Hội
nghị Quân-Dân-Chính toàn tỉnh, Ty công an đã điều Trưởng phòng trinh sát Công
an tỉnh Nguyễn Bá Cẩn về phụ trách Công an huyện Vũng Tàu thay Lê Tân, để điều
tra làm rõ vụ này.
Do hậu quả của việc
thực hiện chủ trương không đúng về tổ chức “mật vụ đỏ” trong nội bô, Nguyễn Bá
Cẩn đã dựng lên “vụ án Cọp giả” làm trầm trọng thêm tình trạng nghi kỵ nhau
trong nội bộ, gây mất đoàn kết nội bộ và kết hợp nhiều nguyên nhân đã trở thành
một vụ bắt bớ trấn áp trong nội bộ.
Vụ Cọp giả xuất
phát từ huyện Long Thành (Biên Hòa), huyện giáp ranh với Vũng Tàu. Nguyễn Bá
Cẩn quan hệ với công an Long Thành, được thông tin những lời khai có liên quan
đến công an và cán bộ Vũng Tàu. Trong khi tỉnh ủy Biên Hòa đã kịp thời ngăn
chặn và giải quyết vụ Cọp giả thì Nguyễn Bá Cẩn lại áp dụng những sai lầm về
huyện Vũng Tàu. Với động cơ không lành mạnh, Nguyễn Bá Cẩn dựng thành vụ án
chính trị: “Đảng Việt Nam phục quốc”, thuyết phục bí thư Huyện ủy Lê Đình Y cho
bắt giam nhiều cán bộ nòng cốt, khai thác bằng phương pháp tra tấn, bức cung,
gây ra việc khai báo sai lệch, bắt bớ tràn lan, làm náo động lớn ở Đảng bộ
huyện Vũng Tàu. Hàng loạt cán bộ cốt cán và quần chúng tích cực ở các cơ quan
ban, ngành, quân dân chính đảng của huyện Vũng Tàu bị bắt giữ, bị tra tấn, ép cung.
Không khí căng thẳng, hoang mang bao trùm nhiều cơ sở ở huyện Vũng Tàu, có một
số nơi tê liệt hẳn các hoạt động.
Để thực hiện những
ý đồ đen tối, Nguyễn Bá Cẩn bỏ qua vai trò tập thể của huyện ủy, Ủy ban, chỉ
tranh thủ ý kiến riêng của Bí thư Lê Đình Y, dùng bộ máy công an phục vụ cho ý
đồ cá nhân, bắt giam đồng chí Nhật chủ tịch xã Đoàn Kết, đồng chí Ký cán bộ phụ
trách mặt trận Liên Việt và đồng chí Nguyễn Văn Cúc, Chủ tịch Ủy ban kháng
chiến hành chính xã Phú Mỹ. Nguyễn Bá Cẩn lập phòng khai thác, tra tấn, bức
cung để xây dựng một danh sách “gián điệp Liên Bang (EMS), gián điệp OR, Đại
Việt, Cao Đài”… Hầu hết những cán bộ, đảng viên, quần chúng chủ chốt ở huyện và
các xã đều có tên trong danh sách gián điệp, phản động của Nguyễn Bá Cẩn; kể cả
phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến huyện Nguyễn Đăng Khoa cũng bị
vu cáo là “lãnh tụ Việt Quốc” phản động ở Vũng Tàu.
Không khí khủng bố
do Nguyễn Bá Cẩn tạo ra làm cho cán bộ, đảng viên và đồng bào vô cùng hoang
mang. Nhận được tin báo của các đảng viên trung kiên, Bí thư Tỉnh ủy Vũ Tấn đã
triệu tập họp Ban Thường vụ huyện ủy Vũng Tàu, chỉ thị đình chỉ ngay việc bắt
bớ các cán bộ, đảng viên và quần chúng trong vụ “phát hiện tổ chức phản động”.
Tất cả những người đã bị bắt, kể cả khai thác và chưa khai thác đều phải chờ
chỉ thị của tỉnh ủy, đưa về Ty Công an xử lý. Cuộc họp bất thường của Ban
thường vụ tỉnh ủy sau đó tại căn cứ khu Đông đã đi đến một số quyết định cấp
bách:
- Chỉ thị
(bằng văn bản) cho huyện ủy Vũng Tàu, đình chỉ việc triển khai bắt bớ, đưa các
đồng chí đã bị bắt, bị giam về công an tỉnh giải quyết;
- Chỉ thị cho
công an tỉnh trực tiếp xuống Vũng Tàu nắm rõ tình hình, tiếp quản hồ sơ và đưa
tất cả tất đồng chí bị bắt bị giam về tỉnh để làm công tác tư tưởng;
- Cử đồng chí
Hồ Sỹ Nam và một số cán bộ của tỉnh về Vũng Tàu, tìm hiểu kết quả tình hình
diễn biến và bàn biện pháp ổn định tư tưởng và tổ chức
Trong khi đó,
Nguyễn Bá Cẩn vẫn tiếp tục lũng đoạn bộ máy lãnh đạo ở Vũng Tàu. Khi đồng chí
Nguyễn Vệ Quốc được Sở Công an Nam Bộ điều về làm Trưởng ty công an thay đồng
chí Đặng Văn Thiên (10/7/1950). Nguyễn Vệ Quốc có một số biểu hiện tiêu cực, sử
dụng công quỹ không đúng nguyên tắc, biển thủ tiền, tang vật, hủ hóa gây mất
đoàn kết và chia rẽ nội bộ kéo dài. Nguyễn Bá Cẩn đã dùng gái và tiền tranh thủ
Trưởng ty Nguyễn Vệ Quốc, Bí thư Huyện ủy Lê Đình Y, tạo vây cánh thâu tóm tất
cả quyền lực trong tay, tiếp tục bắt giam những người không ăn cánh. Hai cán bộ
chủ chốt của công an huyện bấy giờ là Lê Tân và Cao Quang Sản bị Nguyễn Bá Cẩn
bắt giam, ghép vào tội làm gián điệp.
Tỉnh ủy đã kịp thời
chấn chỉnh, điều Bí thư Huyện ủy Lê Đình Y và Trưởng Công an huyện Nguyễn Bá
Cẩn về tỉnh để kiểm điểm và điều động một số cán bộ trung kiên về huyện Vũng
Tàu để ổn định tình hình. Sau khi kiểm điểm nghiêm túc, thấy rõ tính chất
nghiêm trọng của vụ việc, tỉnh ủy đã thi hành kỷ luật:
1. Cảnh cáo đối với
Bí thư Huyện ủy Lê Đình Y, thôi giữ chức Bí thư Huyện ủy;
2. Khai trừ
khỏi Đảng đối với Trưởng Công an huyện Nguyễn Bá Cẩn, thôi giữ chức Trưởng Công
an huyện, rút về tỉnh chờ xử lý.
Tỉnh ủy đã báo cáo
xin ý kiến chỉ đạo của khu. Đoàn thanh tra của Khu miền Đông do đồng chí Tạ
Nhất Tứ phụ trách và đoàn công tác của Công an miền Đông do đồng chí Hồ Văn Nâu
phụ trách đã kiểm tra và kết luận, nhất trí với nhận định và đánh giá của tỉnh
ủy. Sau khi kết luận, Công an Nam Bộ quyết định đưa Nguyễn Bá Cẩn về khu xử lý.
Trưởng ty Nguyễn Vệ Quốc cũng bị đình chỉ công tác và được điều về Sở công an
Nam Bộ kiểm điểm làm rõ trách nhiệm.
Tỉnh ủy tăng cường
một số cán bộ cốt cán, đưa đồng chí Bùi Cửu, cán bộ Ty công an Bà Rịa về làm
Trưởng công an Vũng Tàu. Đồng chí Nguyễn Tấn Cách được cử làm bí thư Vũng Tàu.
Đối với số cán bộ bị Nguyễn Bá Cẩn bắt giam, sau khi làm công tác tư tưởng,
phục hồi sức khỏe đã được đưa trở về địa phương, phục hồi lại chức danh.
Tỉnh đội dân quân
quyết định cử đồng chí Trần Quang Bôn làm Chính trị viên đại đội, đưa Trung đội
2, đại đội độc lập 3569 bộ đội chủ lực tỉnh từ Láng Xiêm (Phước Bửu) về Phú Mỹ
thành lập đại đội độc lập 3566, tăng cường lực lượng bảo vệ căn cứ, ổn định
tình hình. Lúc đầu chưa có Ban chỉ huy đại đội, mới có Chính trị viên Trần
Quang Bôn và trung đội trưởng là anh Liễn. Quân số đại đội là 63 đồng chí (giữ
nguyên quân số của trung đội 2 của đại đội độc lập 3569).
Khi ấy mới xảy ra
vụ Nguyễn Bá Cẩn, đồng bào rất hoang mang. Đại đội 3566 tiến hành công tác
chính trị, tuyên truyền vận động đồng bào các xã vùng Rừng Sác (lộ 15), ổn định
tình hình trong tháng 4/1950. đơn vị đã tổ chức nhiều buổi biểu diễn văn nghệ
phục vụ đồng bào.
Trước tình hình đội
du kích tập trung huyện Vũng Tàu đã hao hụt khá nhiều quân số trong những cuộc
chống càn liên tiếp cuối năm 1949, đầu năm 1950, huyện không có khả năng bổ
sung, tỉnh quyết định giải thể đội du kích tập trung Hoàng Hoa Thám của huyện
Vũng Tàu, bổ sung quân số cho đại đội 3566. Tỉnh điều đồng chí Vũ Văn Hiệp về
làm đại đội trưởng, đồng chí Tám Cỏi làm đại đội phó, đồng chí Trần Quang Bôn
vẫn là Chính trị viên. Từ khi đó, đại đội 3566 trở thành bộ đội địa phương
huyện Vũng Tàu, liên tục tác chiến trên mặt trận lộ 15, lộ 2, bảo vệ căn cứ khu
Tây. Sau trận đánh xe chở bạc tại Euo Ông Từ về (12/1950), đồng chí Vũ Văn Hiệp
bị sốt rét rồi hy sinh tại bệnh xá Rạch Nghệ vì thiếu thuốc điều trị. Tỉnh đội
điều đồng chí Nguyễn Văn Phải, chính trị viên đại đội 3569 về làm đại đội
trưởng Đại đội 3566. Đồng chí Tám Lên là đại đội phó, đồng chí Lương Công Năng
thay đồng chí Trần Quang Bôn làm Chính trị viên. Một thời gian sau, trên điều
đồng chí Chín Phải đi, đồng chí Trần Văn Lý (quê Long Điền) về làm đại đội
trưởng.
Do tương quan lực
lượng và vũ khí lúc đó khá chênh lệch, địch thường xuyên hành quân càn quét với
đội hình cấp tiểu đoàn, với tàu chiến và máy bay yểm trợ, bộ đội địa phương
huyện Vũng Tàu phải chống càn liên tục. Phương thức tác chiến của bộ đội địa
phương huyện nặng về bảo vệ, phòng thủ, không có khả năng tiến công. Lực lượng
tiếp tục bị tiêu hao mỗi lần địch càn quét.
Tháng 10 năm 1950,
đồng chí Võ Văn Khánh được khu ủy điều về thay đồng chí Vũ Tấn làm bí thư Tỉnh
ủy kiêm trưởng ty công an. Sự lãnh đạo của Đảng bộ được tăng cường đối với lực
lượng công an các cấp. Những nghi vấn trong nội bộ Đảng và trong công an căn
bản được giải quyết, nội bộ công an được củng cố, tư tưởng cán bộ và nhân dân
huyện Vũng Tàu được yên tâm.
Tháng 10 năm 1950,
trung đoàn 397 và Tỉnh đội dân quân được sáp nhập thành tỉnh đội Bà Rịa. Đây là
một bước tiến trong việc thống nhất lực lượng, chỉ đạo chiến tranh. Tỉnh đội
chỉ huy lực lượng vũ trang ba cấp trong tỉnh: bộ đội tỉnh, bộ đội huyện và dân
quân du kích. Tỉnh đội xây dựng căn cứ tại Phú Mỹ (Trảng Lớn), mở ra một giai
đoạn phát triển mạnh mẽ phong trào cách mạng ở vùng căn cứ khu Tây.
Nhân dịp lễ “Toàn
quốc kháng chiến” (19/12/1946 đến 19/12/1950), Ủy ban Kháng chiến Hành chính
Nam Bộ đã thưởng bằng khen tặng cho các anh Nguyễn Văn Xiêm, Lê Thành Ngần,
Công an xung phong huyện Vũng Tàu, rất trung kiên, can đảm và tận tuỵ với nhiệm
vụ, đoạt được nhiều thành tích vẻ vang; thưởng bằng truy tặng cho anh Hoàng Đu,
nhân viên công an huyện, rất trung kiên, tận tụy, xung phong công tác, bị giặc
phục kích bắn chết. Đồng chí Hoàng Đu người Việt lai Pháp, quê ở Vũng Tàu, từng
là học sinh trường thiếu sinh quân của Pháp, theo cách mạng từ tháng 8 năm
1945, là chỉ huy phó Quốc vệ đội, rất trung thành với cách mạng.
Mặc dù còn nhiều vấp
váp, khuyết điểm, sau năm năm kháng chiến, Đảng bộ chính quyền và các đoàn thể
cứu quốc của huyện và các xã đã lớn mạnh và trưởng thành, từng bước vươn tới
lãnh đạo toàn diện cuộc kháng chiến chống Pháp. Những nỗ lực của Đảng bộ, quân
và dân trong huyện xây dựng nên căn cứ địa khu Tây đã góp phần tạo ra bước phát
triển mới trong phong trào kháng chiến của huyện và của tỉnh trong thời kỳ
mới./.
Bài 13
Xây dựng vùng căn cứ địa khu Tây của tỉnh
___________________________
Thất bại nặng nề
trong chiến dịch Biên Giới (thu đông 1950) đã buộc thực dân Pháp phải thay đổi
chiến thuật. Biết khó thắng ta ở vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ, chúng tập
trung binh lực bình định vùng đồng bằng Nam Bộ, vùng đông dân, nhiều của, mà
các tướng lĩnh Pháp đã quen thuộc chiến trường. Tướng Đờ Cát đờ Tatxinhi được
cử sang Đông Dương thay Bôlae; Mỹ tăng viện trợ cho cuộc chiến tranh Đông
Dương.
Trên chiến trường
Miền Đông Nam bộ , thực dân Pháp gia tăng áp lực quân sự và phương thức tác
chiến, chúng tập trung lực lượng càn quét từng vùng, chiếm đóng từng khu vực,
sử dụng biệt kích thọc sâu vào căn cứ ta, chà đi sát lại dài ngày, giết người,
cướp của, triệt phá kinh tế. Vùng căn cứ từ Hắc Dịch –Phú Mỹ đến Bà Trao-Núi
Nứa liên tục bị càn quét.
Về phía ta, từ cuối
năm 1950, lực lượng vũ trang được tổ chức lại theo hướng xây dựng các tiểu đoàn
chủ lực của khu, tiểu đoàn tập trung của tỉnh và đại đội độc lập tăng cường cho
huyện, phát triển các đội binh chủng, đảm bảo cho cấp tỉnh và huyện có đủ lực
lượng bảo vệ địa bàn, đẩy mạnh chiến tranh du kích. Trong khi các đơn vị chủ
lực đang tập kết lực lượng về Phú Mỹ để chuẩn bị thành lập tiểu đoàn 300, thực
dân Pháp đã mở một cuộc càn qui mô vào Phước Thiện, Phú Mỹ. Các đơn vị kịp thời
triển khai lực lượng, phối hợp với bộ đội địa phương huyện Vũng Tàu và du kích
Phú Mỹ chống càn, tiêu hao hai trung đội địch.
Sau ba tháng luyện
quân, Tiểu đoàn 300 làm lễ ra mắt tại Đồng Lớn, xã Phú Mỹ tháng 3 năm 1951.
nhiệm vụ của Tiểu đoàn là tác chiến trên chiến trường Bà Chợ và đảm nhiệm công
tác X, bao gồm nhiệm vụ bảo vệ Công binh xưởng và Phòng quân giới Nam bộ, ủng
hộ vận tải vũ khí từ Công binh xưởng ở Phú Mỹ về Bộ tư lệnh Nam bộ để phân phối
đi các tỉnh. Tiểu đoàn 300 bố trí lực lượng, phối hợp với bộ đội địa phương
huyện Vũng Tàu và tự vệ Công binh xưởng đánh địch, bẻ gãy nhiều trận càn quét
của thực dân Pháp, bảo vệ an toàn xưởng quân giới.
Tháng 5 năm 1951,
quân Pháp sử dụng lực lượng hỗn hợp gồm hải quân, bộ binh, biệt kích mở một
trận càn quét lớn, dài ngày, vào Phú Mỹ, Hắc Dịch, Phước Hòa, Tân Thành nhằm
mục tiêu đánh phá xưởng quân giới, giải tỏa lộ 15. tự vệ xưởng quân giới Nam Bộ
dùng mìn và lựu đạn tự tạo, chống càn có hiệu quả, bảo vệ xưởng. Đại đội 2,
tiểu đoàn 300 chủ động tiến công địch tại Bưng Trục, loại khỏi vòng chiến đấu 2
đại đội địch, thu 80 súng.
Biết rõ tình hình
khó khăn về lương thực của ta, thực dân Pháp thường xuyên dùng máy bay phá ác
liệt phá hủy các rẫy mì, hoa màu trong vùng căn cứ. Địch còn cho cả máy bay
phun xăng đặc, dùng đạn lửa bắn xuống đốt cháy rẫy. Nhiều rẫy lúa, rẫy bắp bị
cháy thành tro, chỉ còn lại các rẫy mì dù bị cháy, bị gẫy, vẫn có thể mọc lại,
củ mì nằm dưới mặt đất ít bị hư. Củ mì trở thành nguồn lương thực chủ yếu trong
căn cứ. Cán bộ, chiến sĩ ăn củ mì, rau rừng lâu ngày cơ thể bị suy nhược, hầu
như ai nước da cũng xanh mét. Nhưng mì cũng không đủ ăn cho số lượng người quá
đông trong căn cứ. Bộ đội phải vào rừng đào thêm củ nần, khoai chụp quanh suối
Châu Pha và Hắc Dịch. Đó là chưa kể khó khăn do muỗi độc gây ra, nhiều đồng chí
bị bệnh sốt rét. Đồng chí Vũ Văn Hiệp, đại đội trưởng bộ đội địa phương huyện
Vũng Tàu bị sốt rét, không đủ thuốc điều trị, sau 7 ngày đã qua đời.
Tỉnh điều đồng chí
Nguyễn Văn Phải về làm đại đội trưởng bộ đội địa phương huyện Vũng Tàu. Tháng 4
năm 1951, bộ đội địa phương huyện Vũng Tàu phối hợp với đại đội 3569, bộ đội
chủ lực tỉnh tổ chức trận đánh phục kích giao thông tại Sông Cầu (dốc Bò Đuối).
Chín giờ sáng, một đại đội binh địch hành quân mở đường trên lộ 2 lọt vào trận
địa phục kích. Bộ đội địa phương huyện Vũng Tàu và tiểu đoàn 300 đồng loạt nổ
súng. Địch chống trả ác liệt. Ta diệt được 2 xe, bắt sống 4 tù binh, tiêu hao
đại đội này. Đồng chí Võ Chín đại đội trưởng 3569 đã hy sinh anh dũng trong
trận đánh này. Hội nghị Trung ương Cục miền Nam tháng 5 năm 1951 quyết định chia
lại chiến trường Nam Bộ thành hai Phân liên khu: Phân liên khu Miền Đông và
Phân liên khu Miền Tây, lấy sông Tiền làm ranh giới. Tỉnh Bà Rịa –Chợ Lớn được
thành lập, trực thuộc Phân Liên khu Miền Đông gồm toàn bộ tỉnh Bà Rịa và một
phần của 3 tỉnh Chợ Lớn, Biên Hòa, Gia Định, được tổ chức thành hai thị xã (Cấp
và Bà Rịa) và 6 huyện: Long Điền-Đất Đỏ, Vũng Tàu, Cần Đước, Cần Giuộc, Nhà Bè,
Long Thành. Đồng chí Võ Văn Khánh, Phân liên khu ủy viên Miền Đông Nam Bộ được
chỉ định là Bí thư Tỉnh ủy.
Hai huyện Long Điền
và Đất Đỏ được sáp nhập thành huyện Long Điền-Đất Đỏ. Các xã Cộng Hòa, Long
Phước, Hắc Dịch của huyện Long Điền trước đó nay đặt thuộc huyện Vũng Tàu.
Huyện Vũng Tàu có 12 xã trong đó có 3 thị xã bị tạm chiếm là Hòa Long, Long
Phước, Thạnh An, các xã còn lại là vùng độc lập gồm: Bà Trao, Thống Nhất, Long
Hương, Long Hòa, Xuân Hòa, Đoàn Kết, Tân Thành, Phú Mỹ, Hắc Dịch. Toàn huyện có
793 đảng viên, trong đó có 586 đảng viên chính thức và 207 dự bị. Con số đảng
viên dự bị cho thấy trong năm 1951, Huyện ủy Vũng Tàu phát triển Đảng rất
nhanh, đạt chỉ số 35,32%.
Thực hiện chủ
trương của Trung ương Cục miền Nam, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ đã ra
nghị định số 172/NB-51, ngày 27 tháng 6 năm 1951 thành lập tỉnh Bà Rịa –Chợ
Lớn; Nghị định số 175/NB/51 (cùng ngày) chỉ định thành phần Ủy ban Kháng chiến
Hành chính tỉnh. Ủy ban Kháng chiến Hành chính huyện Vũng Tàu gồm các ông Trần
Đình Chi (Chủ tịch), Trần Khánh Dư (Phó chủ tịch), Nguyễn Văn Dơn (tức Ngươn,
Ủy viên quân sự), Hứa Văn Đạt (Ủy viên), Lê Hữu Phúc (Ủy viên).
Tỉnh quyết định
chuyển các cơ quan của tỉnh từ căn cứ Xuyên Phước Cơ về Phú Mỹ-Hắc Dịch. Ủy ban
Kháng chiến Hành chính tỉnh đặt tại Đồng Lớn Phú Mỹ. Nhân dân các xã vùng căn
cứ khu Tây rất phấn khởi và hết lòng ủng hộ kháng chiến, giúp các cơ quan của
tỉnh xây dựng lán trại, ổn định sinh hoạt trên địa bàn. Bước sang năm 1951,
Tỉnh ủy đã được củng cố về tổ chức và trưởng thành trên các mặt chính trị tư
tưởng cũng như kinh nghiệm lãnh đạo kháng chiến. Nhiều đợt thanh tra của các
ban ngành đã góp phần chấn chỉnh lề lối làm việc và làm trong sạch bộ máy kháng
chiến của tỉnh cũng như ở huyện. Căn cứ vào kết luận của đoàn thanh tra tại
huyện Vũng Tàu, Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh đã quyết định cách chức ông
Châu Thành Long, Ủy viên Ủy ban Kháng chiến Hành chính huyện Vũng Tàu và truy
tố trước tòa án quân sự tỉnh, phạt tù 5 năm về tội lạm dụng của công làm của
tư. Ban chỉ huy Tỉnh đội Bà Rịa-Chợ Lớn được củng cố. Hệ thống Đảng trong quân
đội chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy. Đồng chí Võ Văn Khánh, Bí thư Tỉnh
ủy kiêm Bí Thư Đảng ủy quân sự, kiêm trưởng Ty Công an. Những vấn đề nội bộ ở
huyện Vũng Tàu được chấn chỉnh và từng bước ổn định. Với quyết định chuyển các
cơ quan của tỉnh về Căn cứ khu Tây, Phú Mỹ-Hắc Dịch đã trở thành trung tâm lãnh
đạo cuộc kháng chiến. Căn cứ Phú Mỹ-Hắc Dịch hình thành từ năm 1947 đã trở
thành chỗ dựa và hậu phương tại chỗ quan trọng của cuộc kháng chiến của tỉnh và
của miền. Phòng quân giới Nam Bộ và Công binh xưởng Nam
bộ đã hoạt động tại Phú Mỹ, mở rộng sản xuất, cung cấp vũ khí cho cả chiến
trường Nam
bộ. Căn cứ khu Tây nối liền với Chiến khu Rừng Sác rộng khoảng 60.000 hécta,
cửa ngõ của Sài Gòn, là một địa bàn chiến lược, nếu tiến có nhiều thuận lợi
đánh vào Sài Gòn, lui có điều kiện tốt để bảo tồn lực lượng. Với bờ biển dài và
hệ thống sông rạch chằng chịt của rừng Sác, rất thuận tiện cho việc trực tiếp
nhận viện trợ của Trung ương và vận chuyển lương thực từ miền Đông, qua sông
Lòng Tàu. Tuy nhiên, việc vận chuyển rất khó khăn, vì địch thường xuyên phục
kích, đánh phá./.
Bài 14
Những khó khăn của quân và dân vùng căn cứ khu Tây
____________________________
Trước khó khăn về
lương thực thực phẩm, tỉnh ủy chỉ đạo các cơ quan, đơn vị phải tổ chức phát
rẫy, sản xuất lương thực, thực phẩm. Bộ đội mỗi năm phải tự túc 4 tháng lương
thực. Cán bộ mỗi năm phải tự túc 6 tháng lương thực. Trong lúc chưa kịp tổ chức
mạng lưới cung cấp lương thực thực phẩm về căn cứ khu Tây, nhiều đơn vị, bộ đội
phải ăn bắp, ăn củ thay cơm. Các đội binh chủng của tỉnh bám rừng Sác Hội Bài,
phải dựa vào các ghe bán củi nhờ mua gạo. Bộ đội binh chủng đóng ở rừng Sác do
đồng chí Đức, Hoàng Tùng chỉ huy chặt cây chà là luộc ăn đánh giặc. Trận Rau
Râm, trận chống càn Bàu Lùng, giặc thua chạy nhưng bộ đội bụng đói không còn
sức để truy kích.
Ngày 26 tháng 5 năm
1951, du kích xã Đoàn Kết đã đưa đội binh chủng (tiểu đoàn 300) ra bám tại Vàm
Bà Nghĩa trên sông Lòng Tàu, đánh hỏng nặng chiếc tàu Saint Louberbier trọng
tải 10 nghìn tấn. Đây là trận đánh chìm tàu lớn nhất trên sông Lòng Tàu, là
chiến công phối hợp với chiến trường phía Bắc. Hội Phụ nữ cứu quốc các xã đã
vận động nhân dân mang lúa, gạo, thịt, trái cây vào căn cứ của tiểu đoàn 300
tại cánh đồng Don mừng thắng lợi.
Sau nhiều trận càn
vào đánh Phú Mỹ bị thất bại, bộ binh không dám càn vào thì chúng cho máy bay
đánh phá. Toàn bộ nhà dân vùng Phú Mỹ đều bị phá hủy, có gia đình phải làm đi
làm lại 4-5 lần. Hội nghị cán bộ toàn tỉnh tháng 6 năm 1951 đã chủ trương đẩy
mạnh công tác 3 vùng chiến lược, xây dựng phương thức tác chiến của các lực
lượng vũ trang và hoạt động của các đoàn thể cách mạng; chú trọng xây dựng cơ
sở ở các vùng bị địch tạm chiếm. Hội nghị có đại biểu quân dân chính Đảng từ
tỉnh, đến các huyện xã về dự, thảo luận những biện pháp cấp bách nhằm làm
chuyển biến tình hình, đưa phong trào cách mạng vượt qua bước khó khăn. Chuyển
biến vùng du kích và căn cứ, gắn nhiệm vụ hoạt động vũ trang với nhiệm vụ xây
dựng cơ sở cách mạng; bảo vệ căn cứ, sản xuất, bảo vệ cơ sở cách mạng.
Tháng 7 năm 1951,
Tỉnh ủy điều đồng chí Huỳnh Công Thức về làm Bí thư Huyện ủy thay thế đồng chí
Nguyễn Tấn Cách. Đồng chí Dương Ngọc Văn (Nguyễn Văn Đường) được Ủy ban Kháng
chiến Hành chính tỉnh điều về thay thế đồng chí Nguyễn Đăng Khoa làm chủ tịch
Ủy ban Kháng chiến Hành chính huyện. Đồng chí Trần Văn Lý về làm đại đội trưởng
bộ đội địa phương huyện thay đồng chí Nguyễn Văn Phải.
Huyện Vũng Tàu tập
trung lực lượng nhằm phục vụ cho vùng căn cứ theo sự chỉ đạo của tỉnh. Thực
hiện chỉ thị của Tỉnh ủy, Huyện ủy Vũng Tàu đã đặt công tác tư tưởng lên hàng
đầu, phân công các cấp ủy viên về nắm các xã bám sát dân, các cán bộ đại đội
phải đi sát từng tiểu đội, từng chiến sĩ, giải quyết cụ thể từng vấn đề, tháo
gỡ khó khăn, lập tổ săn bắn trên rừng giồng, tổ chức chài lưới dưới rừng Sác,
đánh cá, bắt cua, tôm, chăm sóc sức khoẻ cho cán bộ, bộ đội.
Huyện huy động lực
lượng các xã phối hợp với quân nhu của tỉnh tổ chức thu mua lúa từ Liên
Huyện và Gò Công chở về Bà Trao. Lực lượng dân quân du kích xã Đoàn Kết do xã
đội trưởng Huỳnh Công Trụ tổ chức vận chuyển từ Bà Trao về bến Bà Phóng, Bàn
Thạch. Bốn chiếc xuồng hoạt động liên tục suốt ngày đêm. Hầu hết nhân dân xã
Phú Mỹ đều tham gia vào đội ngũ công nhân “nhà máy xay”. Gọi là nhà máy, nhưng
tất cả đều xay giã bằng tay. Khi có lúa về, chị em phụ nữ Phú Mỹ phải xay giã
trên 10 tấn, trung bình mỗi người dân phải xay giã sàng sảy từ hai đến ba tạ
lúa.
Ngày 30 tháng 7 năm
1951, được bọn đầu hàng phản bội dẫn dường, một Tiểu đoàn địch có hải lục,
không quân yểm trợ, đã mở trận càn quét vào khu căn cứ Phú Mỹ với âm mưu vây
bắt cơ quan lãnh đạo, triệt hạ căn cứ kháng chiến, trọng tâm của trận càn này
nhằm căm cứ của Ty công an. Dưới sự lãnh đạo của tỉnh ủy, các lực lượng bảo vệ
căn cứ đã tổ chức chống càn. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt. Ta đã tiêu diệt
một trung đội giặc, thu nhiều vũ khí. Tuy nhiên, do tương quan lực lượng quá
chênh lêch, các lực lượng bảo vệ phải chặn địch để các cơ quan hậu cứ của tỉnh
và Văn phòng Ty công an di chuyển về Rừng Sác. Địch tổ chức nhiều cuộc càn quét
chà đi sát lại vùng Bàn Thạch, Tân Thành. Sau bốn ngày càn quét, chiều ngày 2
tháng 8 năm 1951 chúng mới rút quân. Căn cứ của Ty Công an bị tổn thất nặng.
Vừa phải đối phó
với các cuộc hành quân càn quét liên miên của địch, quân và dân trong huyện
cũng như cán bộ chiến sĩ trong vùng căn cứ vừa phải đối mặt thường xuyên với
khó khăn về lương thực thực phẩm, về kinh tế tài chính. Dân cư vùng căn cứ khu
Tây thưa thớt, sống rải rác ở hai vùng: Rừng Sác và Rừng Giồng, sản xuất nông
nghiệp hầu như không đáng kể. Dân ở Rừng Sác đông hơn và tập trung ở Bà Trao, Hội
Bài. Trên Rừng Giồng chỉ có Phú Mỹ và Hắc Dịch là hai xã có dân sống tập trung.
Ruộng ở Phú Mỹ ít, lại giáp với Long Thành, là địa bàn bọn biệt kích thường
xuyên đánh phá. Đất sản xuất nông nghiệp thuận lợi chỉ có Hắc Dịch là khá hơn
cả, trồng được mì, bắp và lúa. Dân Hắc Dịch không đông, phần lớn là đồng bào
dân tộc. Hắc Dịch có đồng Châu Pha, đồng Xoài, tiếp giáp với đồng Don, đồng Dầu
(Hòa Long) có thể làm ruộng nước. Bộ đội và các cơ quan tỉnh đầu tư nhiều công
phát rẫy, trồng mì, giải quyết vấn đề hậu cần tại chỗ.
Theo báo cáo tình
hình Kinh tế-Tài chính của Tỉnh ủy Bà Rịa-Chợ Lớn năm 1951, do hạn hán, mất
mùa, do vùng giải phóng bị thu hẹp, lương thực thiếu trầm trọng. Báo cáo cho
biết, tại căn cứ khu Tây (huyện Vũng Tàu) có 9.733 người, dự trù mỗi người ăn
hết 15 giạ lúa/năm thì mỗi năm cần 145.995 giạ; trong khi sản xuất và huy động
chỉ được 102.464 giạ, thiếu 43.036 giạ.
Để phát triển kinh
tế vùng căn cứ, Ty Canh nông đặt thêm một Trại canh cửi ở khu Tây, truyền huấn
nghề kéo chỉ và dệt vải cho đồng bào, chủ yếu là phụ nữ. Cán bộ nhân viên Ty
Canh nông đưa khung cửi và nguyên liệu (bông) đến tận từng ấp, hướng dẫn đồng
bào kéo chỉ, cứ kéo được một kilô bông thì đổi cho đồng bào 4 mét vải. Ty Canh
nông tổ chức được 5 lớp, huấn luyện được 138 học viên, sau một thời gian ngắn,
đã có 120 người kéo sợi lành nghề. Một số người có năng khiếu, được tuyển chọn
trong số học viên, huấn luyện thêm rồi tiếp tục đưa đi tham gia dệt vải, góp
phần giải quyết khó khăn cho vùng căn cứ.
Cuối năm 1951, đồng
chí Võ Văn Khánh chủ trì Hội nghị quân-dân-chính-đảng tại Bàn Thạch, có cán bộ
cốt cán của tỉnh và các huyện tham dự, quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Trung
ương Cục, đặc biệt là ý kiến của đồng chí Lê Duẩn phê phán các địa phương chưa
quan tâm chỉ đạo du kích chiến tranh, chưa thực hiện đúng phương châm ba vùng.
Quán triệt chủ trương của Trung ương Cục. Tỉnh ủy chỉ đạo thực hiện phương châm
ba vùng, chú trọng vùng du kích và vùng bị địch tạm chiếm để khôi phục phong
trào. Hội nghị đã quyết định một số chủ trương và giải pháp thiết thực để khắc
phục những khó khăn trước mắt:
1. Chấn chỉnh lại
tổ chức Đảng trong các cơ quan Quân - Dân - Chính, xây dựng tư tưởng cho cán bộ
đảng viên, đặt kế hoạch cho cán bộ ly hương trở về xã;
2. Tỉnh ủy mời các
Bí thư chi bộ vùng bị địch tạm chiếm về thảo luận, đặt kế hoạch chấn chỉnh cán
bộ vùng bị địch tạm chiếm;
3. Đẩy mạnh
phê bình và tự phê bình đảng viên;
4. Phân công
các huyện ủy viên và cán bộ các ngành quân - dân - chính bám cơ sở vùng bị địch
chiếm để chỉ đạo.
Từ khi các cơ quan
tỉnh chuyển về căn cứ khu Tây, công tác học tập lý luận của Đảng bộ huyện và
các xã có bước tiến bộ rõ rệt. Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy đã biên soạn nhiều tài
liệu học tập thiết thực gửi đến chi bộ các xã như: Mấy điều người cộng sản phải
biết, phải làm; Tuyên ngôn, Chánh cương Đảng Lao động Việt Nam ; Trường kỳ kháng chiến nhất
định thắng lợi… Cùng với các tài liệu được biên soạn phù hợp với trình độ cán
bộ cơ sở, Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy có hướng dẫn cụ thể kế hoạch học tập; kết hợp
học tập với phê bình và tự phê bình; gắn học lý luận với thực tiễn ở cơ sở; mở
nhiều lớp học ngắn hạn; coi trọng việc xây dựng tư tưởng cho cán bộ đảng viên.
Tháng 12 năm 1951,
thực dân Pháp sử dụng một đoàn giang thuyền 13 chiếc đánh sâu vào căn cứ của cố
vấn Nguyễn Văn Mạnh (Tám Mạnh) ở Rạch Chanh. Trung đội bảo vệ căn cứ do đồng
chí Nguyễn Văn Thanh (Hai Thanh) chỉ huy đã kiên cường đánh địch bảo vệ căn cứ.
Trung đội 12 bộ đội địa phương huyện Vũng Tàu đóng quân gần đó, nghe tiếng súng
nổ đã triển khai lực lượng ra phục kích đầu vàm, đón đánh lúc chúng rút về. Do
tương quan lực lượng quá chênh lệch, trung đội phó Trần Văn Giỏi (Giỏi Đen) chỉ
đạo để cho phần lớn đoàn giang thuyền vượt qua, chặn đánh khúc đuôi, bắn chìm
hai giang thuyền đi cuối. Ta thu 2 súng trường Đức và 2 tạ gạo. Cố vấn Nguyễn
Văn Mạnh chia cho trung đội 12 một tạ gạo về khao quân./.
BÀI 15
Địch tăng cường càn quét vào các vùng căn cứ
_______________________________
Trong năm 1952,
tiểu đoàn ngụy binh 65 kết hợp với lực lượng ngụy binh Cao Đài thường xuyên càn
quét vào vùng căn cứ phía Tây lộ 2, thọc sâu vào Châu Pha, Hắc Dịch. Thực dân
Pháp sử dụng lực lượng biệt kích đánh vào các cơ quan xã, huyện, phục vụ việc
dồn dân ra hai bên lộ, lập các khu tập trung, tách nhân dân ra khỏi cách mạng.
Trong khu tập trung, địch khủng bố các gia đình cách mạng, rà soát, bắt bớ cơ
sở kháng chiến. Chúng kiểm soát gắt gao sản xuất, đời sống, hạn chế việc tiếp
tế của đồng bào cho kháng chiến. Vùng du kích và vùng giải phóng ngày càng bị
thu hẹp. Cơ sở trong vùng bị địch tạm chiếm bị tiêu hao nặng. Bộ đội, cán bộ bị
tách khỏi dân, rơi vào tình trạng thiếu đói và rất khó khăn trong tác chiến.
Theo sự chỉ đạo của
Tỉnh ủy Huyện ủy Vũng Tàu tiếp tục thực hiện phương châm ba vùng, đưa cán bộ
bám dân, bám địa bàn, xây dựng lại cơ sở vùng bị địch tạm chiếm làm nhiệm vụ
cung cấp tin tức quân báo và tiếp tế lương thực thực phẩm. Huyện thực hiện tinh
giản bộ máy, chọn lọc số cán bộ có năng lực, có khả năng xây dựng phong trào
đưa về chỉ đạo và phát động quần chúng các xã vùng bị địch tạm chiếm hoặc tăng
cường cho các đơn vị chiến đấu, số còn lại bố trí về sản xuất, làm ruộng rẫy.
Đồng chí Ngô Tiến được cử về làm Bí thư Huyện ủy thay đồng chí Huỳnh Công Thức.
Đầu năm 1952, du
kích các xã Phú Mỹ, Tân Thành, Đoàn Kết đưa tiểu đoàn 300 vượt sông Lòng Tàu
tiến công Chi khu Cần Giờ. Chi khu Cần Giờ do hai đại đội Pạctidăng đóng giữ,
tên quan hai quận trưởng trực tiếp chỉ huy. Nửa đêm 29 tháng 1 năm 1952 (mồng 3
tết Nhâm Thìn), kết hợp với cơ sở nội tuyến trong chi khu mở rộng cửa đồn, quân
ta bất ngờ tập kích từ phía biển vào, diệt gọn một đại đội địch, thu toàn bộ vũ
khí.
Rạng sáng mồng 4
tết, chiến trường vừa thu dọn xong thì địch huy động 30 tàu chiến lớn nhỏ, chặn
đường rút lui của ta. Mười ngày đêm ròng rã thiếu nước ngọt và lương thực, mang
theo 12 thương binh, các chiến sĩ ta phải ăn cua sống, bần chua cầm hơi và tìm
cách thoát khỏi vòng vây. Hai cha con một gia đình ngư dân sinh sống bằng nghề
bắt cua ở Rừng Sác đã dùng chiếc ghe nhỏ luồn lách trong những con rạch nhỏ, đi
về 25 chuyến, chuyển hết đại đội 2 vượt qua vòng vây dày đặc của địch, qua sông
Đồng Tranh về căn cứ khu Tây an toàn. Cánh quân làm nhiệm vụ chặn hậu hướng Nhà
Bè cũng được một ông già chở dưa hấu từ một cù lao Rừng Sác qua dẫn đường,
thoát khỏi vòng vây về đến căn cứ.
Trận đánh chi khu
Cần Giờ là trận tiêu diệt cấp chi khu đầu tiên của Nam Bộ vào thời điểm đó.
Thắng lợi của trận đánh thể hiện quyết tâm rất cao của cán bộ, chiến sĩ, thể
hiện trình độ tổ chức chỉ huy và hiệp đồng tác chiến tốt. Đó cũng là kết quả
luyện tập nhiều ngày về đánh công kiên của Tiểu đoàn 300, là thắng lợi của tinh
thần chiến đấu dũng cảm, chịu đựng gian khổ ác liệt trong những ngày bị địch
bao vây, sự hiệp đồng tác chiến giữa bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương, giữa
quân và dân, đặc biệt là tinh thần cách mạng của những người dân sinh sống tại
Rừng Sác, Cần Giờ, đã hết lòng giải thoát cho bộ đội khi lâm vào cảnh hiểm
nghèo, bị tàu địch bao vây bốn phía giữa sình lầy, sông nước và đói rét.
Năm ngày sau, ngày
4 tháng 2 năm 1952, tiểu đoàn 300 lại triển khai lực lượng, cùng bộ đội địa
phương huyện và du kích các xã Phú Mỹ, Hắc Dịch chặn đánh hai đại đội địch càn
quét tại Phước Thái, diệt 2 trung đội.
Trong năm 1952, cán
bộ xã đội các xã và cán bộ phụ trách dân quân huyện đã được tham dự 5 lớp huấn
luyện tại Phú Mỹ, trong đó có 3 lớp cho cán bộ xã đội, một lớp địch vận, một
lớp quân báo với tổng số học viên là 95 người. Du kích xã học kỹ thuật xạ kích,
lựu đạn và địa lôi. Du kích mật học nghiệp vụ thông tin, lấy tin; gài lựu đạn,
địa lôi, bàn chông, hố chông. Qua các lớp huấn luyện, du kích các xã đã có
nhiều tiến bộ trong việc sử dụng súng trường với địa lôi, độc lập hoặc phối hợp
với bộ đội địa phương tiêu hao sinh lực và cơ giới địch trên đường giao thông;
dùng lựu đạn gài để chống bọn biệt kích bảo vệ địa bàn; dùng mìn phối hợp với
lựu đạn gài chống khủng bố và tuần tiễu.
Tiểu đoàn 300 liên
tục chống càn trên lộ 15, bảo vệ địa bàn và hỗ trợ cho phong trào du kích chiến
tranh. Ngày 21 tháng 4 năm 1952, tiểu đoàn 300 đã chặn đánh một đại đội
Commandos do tên quan ba Souarcot chỉ huy càn vào Phú Mỹ, diệt trên 40 tên.
Trong bốn tháng đầu
năm 1952, thực dân Pháp thường xuyên sử dụng lực lượng cấp đại đội đến cấp tiểu
đoàn đột kích đánh phá đánh sâu vào các căn cứ của ta. Trong các cuộc càn quét
lấn chiếm căn cứ địa, địch chú trọng đánh phá về kinh tế, bắn giết trâu bò, làm
ngưng trệ hoặc phá hoại mùa màng, dùng bọn đầu hàng đột kích phá vụ làm mùa ở
rìa căn cứ, tạo vành đai trắng buộc đồng bào phải bỏ hoang ruộng chung quanh
căn cứ như ruộng đồng Đồng Don (căn cứ khu Tây). Giặc tăng cường phong tỏa
đường vận tải rút lúa của ta nhất là từ Liên-Huyện, Long Thành về Phú Mỹ, chú
trọng phá hoại và cướp lấy ghe xuồng. Trong 6 tháng đầu năm 1952, cơ quan của
tỉnh và đồng bào các xã Tân Thành, Đoàn Kết và Xuân Hòa đã bị thiệt hại 18 ghe,
10 xuồng.
Do mức độ đánh phá
của địch ngày càng ác liệt, việc vận chuyển vũ khí về Nam bộ rất khó
khăn, vì thế, Trung ương Cục quyết định chuyển toàn bộ Xưởng quân giới từ Phú
Mỹ về Đất Cuốc (Chiến khu Đ). Nhiệm vụ quan trọng này được giao cho Tỉnh ủy Bà
Chợ với mật khẩu là “Kế hoạch X”.
Công binh xưởng quy
mô rất lớn, công nhân viên đến 500 người, máy móc thiết bị hàng trăm tấn, có
những cỗ máy 20 người luân phiên nhau khiêng. Quân khu điều 300 dân công tỉnh
Thủ Biên (xã Đại An, Lạc An) cùng đại đội 2 của tiểu đoàn 303 quân khu do đại
đội trưởng Lâm Văn Thê chỉ huy xuống phối hợp với tiểu đoàn 300 và dân công Bà
Chợ làm nhiệm vụ di chuyển. Tỉnh đội Bà Chợ huy động lực lượng dân quân các xã
tương đương một tiểu đoàn do đồng chí Đào phụ trách, tham gia công tác vận
chuyển. Việc di chuyển phải cắt rừng, mở đường mới để tránh địch phát hiện và
đánh phá. Lực lượng công an tỉnh, công an huyện Vũng Tàu làm nhiệm vụ bảo vệ
địa bàn; Tiểu đoàn 300 trực tiếp bảo vệ đoàn vận tải. Bộ đội địa phương huyện
làm nhiệm vụ bảo vệ căn cứ.
Công tác bảo vệ bí
mật, an toàn việc thực hiện “Kế hoạch X” rất quan trọng. Tình hình hết sức khó
khăn, lương thực thiếu, cán bộ chiến sĩ vừa đói, lại phải vác nặng, phải băng
rừng, vượt sông suối, công việc nặng nhọc hết ngày này sang ngày khác. Địch
tung quân chặn nhiều nơi, nhưng ta liên tục mở đường mới di chuyển an toàn. Sau
cuộc tổ chức vận chuyển quy mô của tỉnh không thành công, Ban chỉ huy Tiểu đoàn
300 giao nhiệm vụ cho đại đội 3 kết hợp với công binh xưởng tổ chức lại lực
lượng theo hướng vận chuyển gọn, nhẹ, nhanh, an toàn, bảo đảm bí mật.
Ngày 26 tháng 6 năm
1952, đoàn vận tải bắt đầu xuất phát từ Phú Mỹ, theo lộ trình vượt sở cao su
Long Thành đi Ông Quế lên An Viễn, qua Sông Buông, vượt lộ 1, cắt qua Hố Nai,
Trảng Bom rồi vượt sông Đồng Nai về Chiến khu Đ. Tiểu đoàn 300 đã rải quân
trinh sát và bảo vệ dọc đường đi. Địch đánh hơi và rải quân càn quét, nhiều lần
đoàn vận tải phải thay đổi lộ trình, Tiểu đoàn 300 vừa đánh địch, vừa bảo vệ an
toàn và bí mật cho cuộc di chuyển. Từ tháng 6 đến tháng 8 năm 1952, Tiểu đoàn
300 cùng quân và dân các xã vùng lộ 15 và các lực lượng cách mạng đóng quân
trên địa bàn Phú Mỹ-Hắc Dịch đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, sau 5 chuyến vận
chuyển đã đưa hàng trăm tấn máy móc, thiết bị, dụng cụ, nguyên liệu vượt qua
đoạn đường dài hàng trăm cây số về Chiến khu Đ an toàn./.
Bài 16
Chiến khu Đ gặp khó khăn về lương thực thực phẩm, vũ
khí và quân dân
_______________________________
Sau trận tập kích
Trung tâm an dưỡng sĩ quan Pháp tháng 7 năm 1952 của lực lượng vũ trang Thị xã
Cấp, giặc Pháp mở nhiều cuộc hành quân càn quét. Chúng sử dụng giang thuyền đổ
quân từ Cửa Lấp qua Bà Trao-Núi Nứa, đến Xuân Hòa, Đoàn Kết, Tân Thành, Phú Mỹ,
Hắc Dịch. Đội binh chủng của Tỉnh bám địa bàn ven rừng Sác, phối hợp với du
kích các xã Phú Mỹ đến Tân Thành, Đoàn Kết, Xuân Hòa đánh địch trên sông rạch.
Tháng 10 năm 1952,
một cơn bão với sức gió dữ dội tràn vào kèm theo lũ lớn dọc các triền sông cuốn
trôi nhiều hoa màu, lương thực, nhà cửa của nhân dân. Ghe xuồng vùng sông rạch
Rừng Sác nhiều chiếc bị lật chìm, khắp trong vùng đều bị ngập lụt. Trận bão tàn
phá nặng nề cả miền Đông Nam Bộ. Toàn bộ ruộng rẫy, kho tàng vùng căn cứ tỉnh
đều bị ngập lụt, hư hại. Lương thực thực phẩm, vũ khí và quân trang quân dụng
thiếu hụt trầm trọng.
Quân và dân trong
tỉnh phải đương đầu với cả thiên tai và địch họa. Tình hình kinh tế của ta gặp
rất nhiều khó khăn. Lợi dụng thiên tai, địch tăng cường lấn chiếm, sử dụng từng
toán biệt kích nhỏ đánh vào vùng căn cứ. Đi đôi với càn quét vùng lấn chiếm,
địch tăng cường bắt lính đôn quân, phát triển lực lượng ngụy binh. Cán bộ cơ sở
bị bắt, bị giết rất nhiều. Một số khác bị đánh bật ra hoặc ra đầu hàng giặc làm
cho đồng bào vùng bị địch tạm chiếm và du kích thêm hoang mang, dao động. Tình
hình căng thẳng này ảnh hưởng đến mọi công tác địch hậu như xây dựng cơ sở quần
chúng, phát triển du kích chiến tranh, chống bắt lính, địch ngụy vận.
Ngoài các thủ đoạn
giặc đã áp dụng có kết quả để củng cố vùng bị địch tạm chiếm, còn có những
nguyên nhân chủ quan của ta tạo nên làm cho các công tác địch hậu chưa phát
triển. Tỉnh ủy chưa rút được kinh nghiệm công tác vùng bị địch tạm chiếm và du
kích để đặt kế hoạch thích hợp cho từng vùng cũng như chưa có kế hoạch cụ thể
để đào tạo cán bộ địa phương làm nòng cốt; kế hoạch đưa bộ máy Quân-Dân-Chính
ly hương về bám xã; các cấp quân-dân-chính-đảng ở huyện và xã chưa lãnh đạo
đúng mức phong trào du kích chiến tranh, nhiều nơi còn xem đó là việc của các
xã hội.
Trong tình hình
địch càn quét mạnh, cán bộ ở các xã bị tiêu hao, có nơi bị đánh bật ra, du kích
xã phần nhiều thoát ly địa phương, lực lượng bị giảm sút, có nơi tan rã. Báo
cáo của Tỉnh ủy năm 1952 cho biết, nguyên nhân chủ yếu là do thiếu nòng cốt và
thiếu sự hướng dẫn chặt chẽ của bộ đội địa phương; các cấp quân-dân-chính-đảng
thiếu kế hoạch cấp dưỡng, giáo dục chu đáo; lực lượng ta bị tiêu hao khi đột
nhập công tác xã; bị tiêu hao và tan vỡ sau những cuộc càn quét mạnh của địch;
lãnh đạo của quân-dân-chính-đảng còn yếu; chưa phát triển được phong trào thanh
niên. Sự phát triển của du kích xã chưa theo kịp nhu cầu chiến trường.
Trước tình hình khó
khăn thiếu hụt về lương thực, Tỉnh ủy phát động trong toàn tỉnh một phong trào
tăng gia sản xuất. Các đơn vị bộ đội, công an và các ban ngành phải bố trí 30%
lực lượng tăng gia sản xuất tự túc nuôi quan, đồng thời giúp nhân dân giảm bớt
những khó khăn do thiên tai gây ra. Mặt trận Liên Việt đã vận động đồng bào
trong vùng bị địch tạm chiếm ủng hộ kháng chiến. Nhân dân các xã Cộng Hòa, Long
Phước quyên góp nhiều thóc gạo ủng hộ cho huyện. Nhân dân các xã Đoàn Kết, Tân
Thành và Xuân Hòa góp nhiều thực phẩm và giúp các tổ chài lưới của huyện, của
tỉnh bám sông rạch, đánh bắt tôm cá, chống đói.
Huyện ủy tăng cường
cán bộ chủ chốt về các xã Long Phước, Cộng Hòa bám địa bàn, bám dân để móc nối
và xây dựng lại cơ sở, vận động dân về đất cũ làm ăn, giáo dục và cảnh cáo các
phần tử làm tay sai cho giặc, tạo thế cho quần chúng vươn lên đấu tranh dân chủ
phát triển, phá lỏng sự kìm kẹp của địch. Đồng bào đấu tranh bung ra đồng sản
xuất ngày càng đông, nhờ đó mà tiếp tế cho bộ đội, cán bộ, du kích ngày càng
nhiều, đời sống của nhân dân đỡ vất vả hơn, sự ra vào khu tập trung bớt khó
khăn.
Theo báo cáo tình
hình 10 tháng đầu năm của Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Bà Rịa-Chợ Lớn, bộ
đội địa phương huyện Vũng Tàu và du kích các xã đã phối hợp với lực lượng của
tiểu đoàn 300 liên tục chống càn, bảo vệ căn cứ, đáng chú ý là trận đánh tàu
địch càn vào Phú Mỹ ngày 1 tháng 7 năm 1952, diệt một đại đội địch; trận diệt 2
tiểu đội DSAV 203 ở bốt Bộng Giếng; diệt một trung đội trên chiếc LCM bị đánh
chìm tại vàm Bà Nghĩa; diệt được 18 tên của Liên đội Commandos 31-53 và đơn vị
này phải phân tán và đổi tên.
Trong năm 1952,
địch càn vào căn cứ khu Tây 21 lần, có lúc chúng huy động lực lượng tương đương
cấp trung đoàn, kết hợp với các phân đội biệt kích nhỏ đánh phá. Có thời kỳ, bộ
đội địa phương huyện và du kích phải đánh địch càn quét, một ngày tới 7 trận,
nhất là trong vụ mùa 1952, thực dân Pháp liên tục càn vào cùng Châu Pha, Hắc
Dịch và Bà Trao-Núi Nứa để cướp lúa.
Cuối năm 1952, quân
Pháp triển khai một kế hoạch chiến dịch lớn, tập trung lực lượng thủy lục,
không quân, chia làm nhiều đợt càn quét, đánh vào căn cứ Phú Mỹ. Suốt một vùng
từ Bà Rịa đến Long Thành, từ rừng Sác đến Hắc Dịch trở thành vùng chiến trận
diễn ra gay gắt. Địch tăng cường một đại đội commandos do Souarcot chỉ huy từ
khu Long Thành đánh xuống, kết hợp với tiểu đoàn BVN 65 ngụy binh tổ chức càn
quét dọc lộ 2 vào Suối Nghệ, Châu Pha, Sông Xoài, Hắc Dịch.
Tình hình huyện Vũng
Tàu chiến sự diễn ra căng thẳng. Tỉnh ủy và Ban chỉ huy quân sự nhận định có âm
mưu chiếm lại lộ 15 và chỉ thị cho bộ đội có kế hoạch đối phó với tình hình
mới. Tỉnh điều đồng chí Lê Văn Phỉ, Bí thư Huyện ủy Long Đất về làm Bí thư
Huyện ủy Vũng Tàu thay đồng chí Ngô Tiến. Huyện ủy Vũng Tàu ra Nghị quyết củng
cố tổ chức, Nghị quyết về công tác trước mắt, nhấn mạnh việc bám đất, bám dân,
sản xuất tự túc và đánh địch càn quét, chống lấn chiếm.
Ngày 23 tháng 11
năm 1952, cuộc càn lớn của thực dân Pháp diễn ra trên địa bàn rừng Sác. Lực
lượng địch có 2 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ, 5 máy bay và 2 tàu chiến hỗ trợ.
Suốt một dải từ Lý Nhơn, Thạnh An, An Thít đến vùng Núi Nứa-Bà Trao, Phú Mỹ,
Tân Thành, Đoàn Kết trở thành những mục tiêu đánh phá của địch. Nhờ trinh sát
nắm chắc tình hình địch, biết rõ vị trí đóng quân của địch, 4 giờ sáng
ngày 24 tháng 11 năm 1952, đại đội 2 tiểu đoàn 300 tổ chức trận tập kích vào
một đại đội của địch đóng quân dã ngoại tại cầu Thị Vải. Trận đánh diễn ra được
5 phút thì các khẩu pháo ở dưới tàu bắn lên chi viện, quân ta rút. Trận này
địch chết 20 tên, ta thu 4 súng. Bên ta có 3 đồng chí hy sinh. Ngày thứ 3 địch
rút quân, cuộc càn chấm dứt.
Công tác sản xuất
tự túc ở huyện và các cơ quan của tỉnh vẫn được đẩy mạnh. Vụ mùa năm 1952-1953
ở Căn cứ khu Tây, đồng bào làm được 899,50 mẫu ruộng (tăng 46,71 mẫu so với vụ
mùa năm trước) và 421 mẫu rẫy (sụt 40 mẫu). Ước tính trong trận bão lụt năm
1952, hoa màu ở căn cứ khu Tây có thể bị thiệt hại 30%, đồng bào khu Tây có thể
tự túc được 50% lương thực thực phẩm. Riêng các cơ quan quân-dân-chính làm được
154 mẫu 65 ruộng và 302,58 mẫu rẫy. Theo dự tính của Ủy ban Kháng chiến Hành
chính tỉnh, trong vụ mùa 1952-1953 này, khả năng tự túc ở căn cứ khu Tây là: Cơ
quan cấp tỉnh 49% (quân sự 44%, dân chính 60%); cơ quan các huyện: 31%. Tỷ lệ
tự túc chung của các cơ quan quân-dân-chính tỉnh và huyện Vũng Tàu là 43%.
Tỉnh ủy đã chỉ đạo
Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh cấp tín dụng cho vay hỗ trợ sản xuất với khả
năng cao nhất, cho các cơ quan Quân-dân-chính tỉnh vay 154.974 đô Đông Dương,
cho đồng bào vùng căn cứ địa vay 100.000 đô Đông Dương. Nhờ tín dụng sản xuất,
các cơ quan đã thực hiện được 2/3 dự án sản xuất, tự túc được 43%. Tỉnh ủy
thành lập Ban Kinh tài do một đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy làm Trưởng
ban cùng các Ủy viên đại diện cho Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh, Tỉnh đội,
Ty Kinh tế, Ty Canh nông làm nhiệm vụ rút lúa gạo từ các vùng bị địch tạm chiếm
về căn cứ. Hai xã Cộng Hòa và Long Phước là nguồn cung cấp lúa chủ yếu cho huyện
Vũng Tàu và bộ đội ở căn cứ khu Tây.
Cuối năm 1952, tình
hình lương thực thực phẩm vẫn hết sức khó khăn, cán bộ chiến sĩ và nhân dân
trong vùng căn cứ rất thiếu đói. Bộ đội địa phương huyện cùng du kích các xã
nam-bắc lộ 15 đã giúp Tiểu đoàn 300 nghiên cứu chiến trường, phối hợp tổ chức
một trận phục kích trên sông Lòng Tàu thắng lợi, diệt một đại đội Au Phi áp tải
chuyến tàu tiếp tế của địch, thu được 100 tấn bột mì, 50 tấn thịt heo, 2 ngàn
xe đạp, 20 ngàn chai bia, góp phần bớt khó khăn, căng thẳng về lương thực, cải
thiện được đời sống của đơn vị và cán bộ trong căn cứ.
Tỉnh ủy tiếp tục
chỉ đạo củng cố căn cứ Hắc Dịch. Đồng bào dân tộc Châu Ro ở Hắc Dịch nghèo khổ
và thất học nhưng tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, đã đóng góp
những thành tích đặc biệt cho kháng chiến. Hắc Dịch là hình ảnh tiêu biểu của
toàn dân kháng chiến. Thanh niên tham gia bộ đội, dân công; thiếu niên tham gia
các các đội văn nghệ, giao liên, canh gác; phụ nữ nấu cơm, dệt vải; người già
vót chông, dập bàn đinh… Tất cả mọi người đều sản xuất, nuôi quân, tất cả đều
tham gia kháng chiến.
Hắc Dịch có kinh
nghiệm đánh địch bằng chông tre, tên ná, bàn đinh. Hàng chục tên xâm lược Pháp
đã phải đền tội bởi những vũ khí mà nhân dân Hắc Dịch tự tạo. Địch đến là đánh,
địch đi lại sản xuất, nuôi quân. Hắc Dịch tiêu biểu cho cuộc kháng chiến toàn
dân-toàn diện- trường kỳ- tự lực của quân và dân Bà Rịa-Vũng Tàu. Đó là xã duy
nhất không có người dân nào theo giặc, không một người nào trong đội ngũ kháng
chiến lại nản chí, bỏ ngũ, ngay cả trong thời kỳ khó khăn, ác liệt nhất.
Với lực lượng tăng
cường của Ban quân báo tỉnh, Biệt động đội Thị xã Cấp nghiên cứu diệt đồn Thạnh
An do một trung đội lính Cao Đài đóng giữ, vừa kìm kẹp nhân dân vừa bảo vệ
đường sông Lòng Tàu. Đêm 14 tháng 12 năm 1952, dân quân các xã vùng lộ 15 đã
Biệt động đội Thị xã Cấp vượt sông tập kích diệt đồn Thạnh An. Lực lượng tham
gia tương đương một trung đội do đồng chí Sáng và đồng chí Trị chỉ huy, hóa
trang như dân đi làm củi, đánh cá, đột nhập vào đồn lúc 9 giờ 40 phút ngày 15
tháng 12 năm 1952, bọn lính trong đồn đi uống cà phê, chỉ còn một tên lính gác.
Đúng vào lúc đó, lực lượng ta cặp ghe, nổ súng, bắt sống tên lính gác, chiếm
đồn.
Địch hoàn toàn bị
bất ngờ, một số tên chạy về đồn bị ta bắt sống. Ta bắt 6 tù binh, thu toàn bộ
vũ khí (hơn 30 súng và nhiều đạn dược), 100 tạ gạo, phá rã bộ máy tề ngụy và
khu gom dân Thạnh An của địch, khai thông tuyến giao thông đường thủy tiếp tế
chở lúa gạo từ Cần Giuộc và Gò Công về căn cứ Khu Tây. Chị Bùi Thị Nga, Hội
trưởng Hội phụ nữ cứu quốc xã Hội Bài cùng chị Vinh, chị Tư, má Tám Cơ, má Hai
Nghệ… đã vận động bà con cho cá, tôm đến lúa gạo để tổ chức bữa cơm mừng chiến
thắng. Trận đánh đồn Thạnh An đã giải quyết được một phần khó khăn về lương
thực. Tuyến vận chuyển tiếp tế từ Liên Huyện về Phú Mỹ bớt tổn thất về người và
của./.
Bài 17
Quân và dân vượt qua mọi khó khăn thử thách
______________________________
Đầu năm 1953, thực
dân Pháp tập trung mọi nỗ lực nhằm chiếm lại lộ 15. ngày 19 tháng 1 năm 1953,
địch tổ chức cuộc càn lớn gồm một tiểu đoàn lê dương, một tiểu đoàn ngụy binh
và Âu Phi từ Bà Rịa đánh lên và từ Phú Mỹ đánh xuống. Lực lượng biệt kích của
Souarcot tổ chức các cuộc càn đánh sâu vào các vùng sông Buông, Hắc Dịch, Bàu
Lùng.
Bộ đội địa phương
huyện Vũng Tàu triển khai đội hình phục kích tại cầu Rạch Chanh. Đúng 7 giờ
sáng, ta phát hiện địch và nổ súng, chặn đánh địch được hơn nửa giờ. Địch đông
gấp nhiều lần, đồng chí Nguyễn Văn Tô hy sinh tại trận địa, đồng chí Riệm (tiểu
đội phó) bị thương, đồng chí Tạ Tấn Lực bị thương và bị bắt. Đơn vị phải rút
sâu vào núi Thị Vải.
Địch tiếp tục càn
quét và hỗ trợ cho công binh sửa đường. Ngày 25 tháng 2 năm 1953, thực dân Pháp
chiếm xã Phú Mỹ, đóng đồn và lập lại Chi khu Phú Mỹ, giải tỏa lộ 15 sau gần 5
năm bị ta cắt đứt. Tháng 4 năm 1953, địch đưa tiểu đoàn 6 Bình Xuyên do Lê Văn
Pôn (con trai Bảy Viễn) chỉ huy về đóng đồn án ngữ lộ 15, tiểu đoàn bộ và một
đại đội binh đóng tại Phú Mỹ; một đại đội đóng ở Bàn Thạch (Tân Thành), một đại
đội đóng tại xã Đoàn Kết.
Nhân dân các xã Phú
Mỹ, Xuân Hòa, Đoàn Kết, Tân Thành bị đưa ra các khu dồn ven lộ 15, một số gia
đình chạy qua Thạnh An hoặc vào sâu trong căn cứ. Chi bộ Đảng không bám được
trong dân. Bảy ngày sau khi giặc tái chiếm đường 15, công binh địch đã khắc
phục toàn bộ cầu cống và san lấp các đoạn đường bị phá, xe quân sự đã bắt đầu
chạy từ Bà Rịa đến Long Thành; hai mươi ngày sau đó, xe tải, xe hành khách từ
Bà Rịa, Vũng Tàu về Sài Gòn bắt đầu chạy. Chúng đã khôi phục được quốc lộ 15
sau gần 6 năm bị quân ta cắt đứt, kể từ tháng 8 năm 1947 đến tháng 3 năm 1953.
Toàn bộ huyện Vũng
Tàu lúc này chỉ còn Hắc Dịch là vùng độc lập. Các xã Xuân Hòa, Đoàn Kết, Tân
Thành, Phú Mỹ đã bị địch chiếm lại, dân bị đưa ra các khu dồn, cán bộ đảng viên
và du kích cũng ly hương, dạt ra ngoài. Các cơ quan của tỉnh và huyện Vũng Tàu
phải chuyển sâu vào rừng Phú Mỹ, giáp Hắc Dịch. Giữa năm 1953, có đến 96 trong
số 103 xã trong toàn tỉnh nằm trong vùng bị địch tạm chiếm và vùng du kích bị
uy hiếp nặng; chỉ còn 4 xã trong vùng căn cứ có chi bộ Đảng bám được trong dân
là Hắc Dịch, Phước Lộc (Phước Bửu-Lộc An), Xuyên Mộc và Cơ Trạch.
Hắc Dịch là một
trong bốn xã vững vàng nhất. Chi bộ xã có 25 đảng viên (5 chi ủy). Toàn xã có
229 người dân. Trong khi đó, lực lượng quân-dân-chính Đảng của tỉnh và của huyện
đóng tại căn cứ lên đến 2000 người. Lương thực thực phẩm do cán bộ, bộ đội tự
túc và huy động từ các nguồn khác chiếm 60%, còn 40% do dân Hắc Dịch đóng góp.
Trung bình, mỗi người dân Hắc Dịch nuôi 3 chiến sĩ. Đồng bào các xã lân cận
trong vùng bị địch tạm chiếm cũng bất hợp tác với giặc, đưa gia đình về đây
sinh sống.
Việc bảo vệ sản
xuất và bảo vệ căn cứ là mối quan tâm thường trực lúc này. Vùng căn cứ khu Tây,
từ khi thực dân Pháp chiếm lộ 15 và thường xuyên càn quét, đột kích đánh phá
mùa màng, đồng bào phân tán vào sâu trong rừng, không dám ra rẫy sản xuất. Tỉnh
ủy chỉ đạo các cơ quan, bộ đội phải đi đầu, đào hầm tại rẫy, vừa sản xuất, vừa
đánh địch, làm nòng cốt vận động đồng bào trở về ruộng rẫy, phục hồi sản xuất.
Bộ đội cùng đồng bào tổ chức canh gác, làm thêm bàn chông, hố đinh bảo vệ rẫy,
nhất là khi mùa lúa, mùa bắp vào vụ thu hoạch, việc bố trí lực lượng chống càn,
bảo vệ đồng bào thu hoạch mùa vụ được tổ chức chặt chẽ.
Mùa hè năm 1953,
Phân liên Khu ủy Miền Đông Nam bộ mở hội nghị 7 ngày, bàn về phương châm công
tác ba vùng tại Bà Đã (Chiến khu Đ). Tiếp thu tinh thần và kinh nghiệm của các
địa phương trong Phân Liên khu Miền Đông, từ ngày 25 đến ngày 27 tháng 5 năm
1953, Tỉnh ủy mở Hội nghị cán bộ tại căn cứ khu Tây nhằm đánh giá lại thực trạng,
tìm ra biện pháp khắc phục khó khăn, phục hồi và phát triển phong trào. Hội
nghị đã quán triệt lại phương châm công tác ba vùng (vùng căn cứ, vùng du kích
và vùng bị địch tạm chiếm), đánh giá đúng thực chất để phân loại vùng, tăng
cường lực lượng vũ trang về hoạt động ở vùng du kích và vùng bị địch tạm chiếm
để hỗ trợ cho phong trào.
Nhờ làm tốt công
tác vận động quần chúng, xây dựng lại cơ sở vùng bị tạm chiếm, thanh niên các
xã Cộng Hòa, Long Phước tòng quân rất đông, cuối năm 1953 có 160 thanh niên nhập
ngũ. Bộ đội địa phương Vũng Tàu được bổ sung quân số hao hụt, phiên chế 3 trung
đội bộ binh và 1 trung đội cối. Đồng chí Trần Văn Lý là đại đội trưởng; đồng
chí Trần Văn Giỏi và đồng chí Nên là đại đội phó; đồng chí Lương Công Năng
chính trị viên phó. Theo sự chỉ đạo của huyện, các đơn vị của C.3566 bộ đội địa
phương huyện được bố trí trên các hướng địch thường càn quét. Trung đội 10 do
đồng chí Be chỉ huy đứng chân vùng suối Châu Pha. Trung đội 12 do đồng chí Trần
Văn Liễn làm trung đội trưởng, đứng chân vùng Tân Thành, hoạt động dọc lộ 15 và
vùng rừng Sác, bảo vệ căn cứ của tỉnh. Trung đội 14 do đồng chí Phan Văn Nhàn
làm trung đội trưởng hoạt động ở Phú Mỹ, bến Cây Dầu, giáp ranh với xã Phước
Thái (huyện Long Thành). Trung đội cối do ban chỉ huy đại đội trực tiếp chỉ
huy, tăng cường hỏa lực cho các trung đội bộ binh khi chiến đấu. Sau khi đồng
chí Be hy sinh, đồng chí Võ Trăng đảm nhiệm cương vị trung đội trưởng đội 10.
đơn vị phối hợp tác chiến với du kích các xã, hoạt động có hiệu quả.
Tỉnh ủy kiên quyết
thực hiện việc giản chính theo hướng tinh gọn, tăng cường chất lượng, sử dụng
lực lượng dôi ra làm nhiệm vụ sản xuất ở căn cứ và tổ chức thành các tổ vũ
trang tuyên truyền đi vào vùng bị địch tạm chiếm xây dựng lại cơ sở. Một phần
lớn cơ quan tỉnh chuyển trở lại căn cứ Xuyên Phước Cơ, chỉ để lại một bộ phận
tiền phương trong đó có đại diện các cơ quan tỉnh do đồng chí Lương Văn Nho phụ
trách. Lực lượng vũ trang chỉ còn đại đội 2 của Tiểu đoàn 300 cùng với
đại đội binh chủng ở Rừng Sác và đại đội bộ đội địa phương huyện Vũng Tàu đứng
chân tại Hắc Dịch, mở rộng hoạt động trên lộ 15.
Bộ máy
quân-dân-chính-đảng ở huyện cũng giản chính theo phương hướng của tỉnh. Huyện
phân công các cấp ủy viên phụ trách các đoàn quân-dân-chính-đảng về bám dân chỉ
đạo củng cố các cơ sở Đảng, các đoàn thể cách mạng ở từng vùng, tổ chức lại lực
lượng dân quân du kích. Bộ đội địa phương Vũng Tàu bám chắc địa bàn, cùng các
xã phát động mạnh mẽ phong trào du kích chiến tranh. Trung đội 14 phối hợp cùng
du kích Phú Mỹ thường xuyên đánh biệt kích đột nhập vào Hắc Dịch, Phú Mỹ từ
hướng Phước Thái, Phước Thiện. Đồng chí Trần Văn Liễn, trung đội trưởng trung
đội 12, đại đội 3566 bộ đội địa phương huyện Vũng Tàu dũng cảm truy kích địch
tại Sông Xoài, đánh tan một trung đội biệt kích OR.
Đây là thời kỳ khó
khăn nhất của quân và dân các xã khu vực lộ 15. Đại bộ phận dân cư nằm trong
vùng bị tạm chiếm, ta không nắm được. Vùng căn cứ bị thu hẹp, chỉ còn rừng Hắc
Dịch-Châu Pha. Sau hàng loạt trận chống càn liên miên, bộ đội địa phương huyện
hao hụt quân số và vũ khí, mỗi cây súng, còn không quá 10 viên đạn. Lương thực
thực phẩm hết, chưa có đường tiếp tế.
Với lực lượng của
Tiểu đoàn ngụy binh BVN 65 tăng cường, tiểu đoàn Bình Xuyên hàng ngày tổ chức
hành quân càn quét sâu vào hai bên lộ 15, đánh phá vùng căn cứ. Những tên chỉ
huy của lực lượng biên soạn phản động hầu hết là những tên ác ôn, dã man khét
tiếng như thiếu tá Tư Bụng, trung úy Búa, thiếu úy Ngân, trung úy FM, thiếu tá
Tư Cúc, song chúng có điểm yếu căn bản, vốn là những tay lưu mạnh giang hồ, ham
ăn ham chơi, ham tiền, ham gái, cầu an, hưởng lạc. Đối với bọn này, lực lượng
địch vận của Tỉnh đội và Huyện đội thỏa thuận không đụng tới chúng với điều
kiện hàng tháng phải chuyển cho ta một ít đạn, ta trả bằng tiền và yêu cầu
chúng không được bắt bớ đánh đập dân. Đám sĩ quan Bình Xuyên nhận lời ngay và
sẵn sàng thực hiện cam kết để có tiền tiêu xài.
Từng hoạt động
trong bộ đội Bình Xuyên trước đay, đồng chí Trần Văn Liễn đã vận động được đại
úy Võ Văn Môn (Bảy Môn), tiểu đoàn phó kiêm tham mưu trưởng tiểu đoàn 6 Bình
Xuyên và một số sĩ quan trong đại đội 2 Bình Xuyên. Các đồng chí Trần Văn Liễn,
Nguyễn Văn Kiềm đã trực tiếp gặp Bảy Môn bàn bạc, phân ranh giới hoạt động. Ta
thỏa thuận cho phía Bình Xuyên được hành quân trên tuyến hành lang một cây số,
tính từ mép lộ vào bìa rừng. Ngoài phạm vi đó là vùng kiểm soát của ta. Nếu
địch hành quân vượt quá ranh giới, ta sẽ nổ súng. Bảy Môn đồng ý và thực hiện
đúng cam kết. Ngoài ra Bảy Môn còn cung cấp cho ta đạn và khí tài. Từ đó, ta và
lực lượng Bình Xuyên không chạm súng. Bộ đội địa phương huyện tập trung về Châu
Pha, Hắc Dịch đối phó với bọn biệt kích ở tiểu khu và bọn biệt kích Souarcot ở
Long Thành đánh vào.
Từ giữa năm 1953
địch phải rút quân ồ ạt từ Nam Bộ ra chi viện cho Trung Bộ và Lào. Địch gấp rút
xây dựng thêm ngụy quân, chi phối các lực lượng vũ trang giáo phái. Số quân
ngụy tăng lên cao nhất từ trước đến lúc đó. Địch sử dụng ngụy binh liên tục càn
quét đánh phá vùng căn cứ kháng chiến.
Các cơ quan của
tỉnh từ Phú Mỹ chuyển về căn cứ khu Đông. Tiểu đoàn 300 cũng chuyển về khu Đông
hai đại đội. Căn cứ Phú Mỹ còn một đại đội bộ binh, ba đội binh chủng hoạt động
vùng rừng Sác. Bộ phận chỉ huy tiền phương do đồng chí Lương Văn Nho phụ trách,
đứng chân ở Hắc Dịch chỉ huy lực lượng của tỉnh và huyện Vũng Tàu ở căn cứ khu
Tây. Tham gia trong Bộ chỉ huy tiền phương còn có các đồng chí Hồ Sĩ Nam chủ
tịch Mặt trận Liên Việt tỉnh, đồng chí Nguyễn Thị Bạch Tuyết, Hội trưởng Hội
phụ nữ cứu quốc tỉnh, và một số đồng chí trong tỉnh ủy.
Sau khi chuyển về
căn cứ khu Đông, Tiểu đoàn 300 đã bám lộ 23, đánh thắng một trận vang dội, diệt
một đại đội ứng chiến trên lộ 23, bắt sống tên đại úy Fardel chỉ huy trưởng chi
khu Đất Đỏ. Nhân dân Hắc Dịch và các lực lượng ở căn cứ khu Tây hết sức phấn
khởi. Trong khi đó, thực dân Pháp tìm mọi cách cứu tên Fardel. Phòng nhì tiểu
Khu Bà Rịa cử tên Lắm liên lạc với Ban chỉ huy tỉnh đội để thảo luận điều kiện
trao trả tù binh. Từng làm đại đội phó ở tiểu đoàn 300, sau về đầu hàng địch,
tên Lắm rành địa bàn căn cứ khu Tây, tìm đến Phú Mỹ. Tháng 7 năm 1953, Lắm viết
thư xin gặp đồng chí Lương Văn Nho nhờ du kích Phú Mỹ chuyển. Được sự đồng ý
của Tỉnh ủy và Tỉnh đội, đồng chí Lương Văn Nho bố trí cho hắn gặp, nhưng không
phải là để bàn việc trao đổi tù binh mà là đưa tên Lắm ra tòa án binh, kết tội
về sự đầu hàng phản bội của hắn. Tháng 8 năm 1953, đồng chí Đặng Sương Mai về
thay đồng chí Nguyễn Ngọc Hít làm huyện đội trưởng Vũng Tàu. Vào khoảng thời
gian này việc sản xuất tự túc đã thu hoạch đáng kể, chưa có gạo, nhưng bắp ăn
đủ no, sức khoẻ bộ đội bình phục. Công binh xưởng huyện Vũng Tàu đào hầm tại
căn cứ suối Châu Pha sản xuất vũ khí suốt ngày đêm. Công việc chủ yếu là làm
đạn rờ sạc, mìn và sửa chữa súng. Trong tháng 9 và tháng 10 năm 1953, bộ đội
địa phương huyện Vũng Tàu đã có đủ đạn để chiến đấu. Ngày 19 tháng 8 năm 1953,
theo sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Huyện ủy Vũng Tàu tham gia hội nghị do Tỉnh đội và
Liên chi ủy Tiểu đoàn 300 uốn nắn những lệch lạc trong việc thực hiện phương
châm công tác ba vùng, chỉ đạo các đơn vị đi sâu vào vùng bị địch tạm chiếm,
kết hợp tác chiến với công tác dân vận, địch ngụy vận và phát động quần chúng.
Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, các cơ quan, đoàn thể và các huyện đã nghiêm khắc
sửa chữa những yếu kém và lệch lạc, nhất là công tác trong vùng bị địch tạm
chiếm và vùng du kích, từng bước khôi phục lại phong trào./.
Bài 18
Củng cố lực lượng, khôi phục lại phong trào
__________________________
Hội nghị Tỉnh ủy
tháng 9 năm 1953 đã sơ kết việc thực hiện phương châm ba vùng và triển khai học
tập tài liệu quan trọng của đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Trung ương Cục: “Mấy sai
lầm căn bản cần sửa chữa gấp trong sự chỉ huy, lãnh đạo thực hiện chiến tranh
nhân dân ở Nam Bộ”. Cùng với việc chỉ đạo học tập sửa chữa sai lầm khuyết điểm,
Tỉnh ủy phát động hưởng ứng phong trào “thi đua sản xuất giết giặc lập công”
với các nội dung cụ thể: thi đua phát triển sản xuất, thu hoạch vụ mùa 1953,
thu thuế nông nghiệp, tiêu hao tiêu diệt sinh lực địch…
Tháng 12 năm 1953,
từ hướng Bà Rịa, một đại đội biệt kích Commandos đột kích vào căn cứ của trung
đội 14 tại suối Châu Pha. Nghe tiếng súng nổ, đại đội trưởng Trần Văn Lý đã lập
tức triển khai đội hình đánh địch, chi viện, nhưng địch đã rút chạy, ta truy
kích theo dấu máu. Lúc 11 giờ 30 phút, trinh sát phát hiện địch hội quân ăn cơm
bên bờ Sông Xoài, đại đội phó Tám Cỏi lập tức đưa lực lượng vượt sông, vận động
tập kích bất ngờ. Địch tháo chạy hỗn loạn, ta xung phong truy kích, thu 20
súng. Tên chỉ huy cùng với một tốp lính lẩn vào rừng chạy về Sở cao su
Cuộctơnay thoát chết. Bộ đội ta chỉ có một đồng chí bị thương nhẹ.
Cuối tháng 12 năm
1953, Đại đội phó Nguyễn Văn Lên đưa một tiểu đội của trung đội 12 do đồng chí
Nguyễn Văn Kiềm phụ trách về Long Phước tổ chức diệt tên ác ôn Một Mun. Đơn vị
phục kích tại cầu Ông Địa, đón đánh Một Mun vào sáng thứ hai, khi hắn về tiểu
khu họp. Sáng 25 tháng 12 năm 1953, chiếc xe Jeep từ đồn Long Phước chạy ra,
đại đội phó Tám Lên quan sát trên cây mít ra hiệu lệnh cho tiểu đội Nguyễn Văn
Kiềm nổ súng. Hôm ấy Một Mun không đi mà cử đội Đê và Đội Được họp thay. Đội
Được bị thương, hai tên quăng súng, chạy tháo thân. Ta thu được 2 khẩu súng.
Bộ chính trị Trung
ương Đảng quyết định mở chiến dịch Đông Xuân 1953-1954. Để phối hợp chiến
trường, bộ tư lệnh Phân Liên khu Miền Đông chủ trương giũ vững và phát triển
rộng khắp du kích chiến tranh, đẩy mạnh công tác địch ngụy vận, củng cố và mở
rộng căn cứ địa, vận động nhân dân kết hợp tác chiến phá khu gom dân của địch.
Từ cuối năm 1953
trở đi, thế kìm kẹp của địch giảm dần. Thực dân Pháp phải rút một phần lớn lực
lượng ở Nam Bộ ra tăng cường cho chiến trường Điện Biên Phủ. Tận dụng điều kiện
thuận lợi, Huyện ủy Vũng Tàu chú trọng phát triển phong trào du kích chiến
tranh. Đêm 4 tháng 1 năm 1954, đại đội trưởng Trần Văn Lý đưa bộ đội địa phương
huyện Vũng Tàu hành quân từ Châu Pha vượt lộ 15 (khu vực Hầm Đá Long Hương),
phục kích địch tại bến Ông Trăng (Long Hương) diệt một trung đội Cao Đài, thu 2
súng trung liên FM, 17 súng trường, súng phóng lựu đạn và tiểu liên. Trận đánh
ngay sát nách tỉnh lỵ và tiểu khu của địch đã cổ vũ mạnh tinh thần kháng chiến
của quân và dân toàn tỉnh. Bộ đội địa phương huyện toàn thắng, không có đồng
chí nào thương vong.
Những thắng lợi của
quân dân ta trên khắp các chiến trường đầu năm 1954 có tác động ảnh hưởng đến
phong trào kháng chiến của tỉnh và của huyện. Song song với hoạt động vũ trang,
Huyện ủy đẩy mạnh công tác địch ngụy vận. Tề ngụy hoang mang, lính ngụy co lại
trong các đồn bót, giảm các hoạt động càn quét. Do chú trọng phương châm công
tác ba vùng, nhất là trong vùng bị địch tạm chiếm và vùng du kích, phong trào
đấu tranh của quần chúng trong vùng bị tạm chiếm từng bước hồi phục và phát
triển.
Tháng 3 năm 1954,
đại đội 3 tiểu đoàn 300 từ Phước Bửu được lệnh hành quân về Hắc Dịch thay thế
nhiệm vụ của đại đội 2. Bộ đội địa phương huyện Vũng Tàu vừa đánh địch ở cầu
Rạch Bà rút qua Phước Tỉnh về Phước Bửu cũng được lệnh hành quân về Hắc Dịch.
Hai đại đội vừa dừng chân ở khu vực Suối Gùi (một nhánh của Suối Châu Pha) thì
lực lượng biệt kích do tên trung úy ác ôn Souarcot chỉ huy đột kích thẳng vào
đội hình trung đội 2 của đại đội 3. ngay lập tức, bộ đội ta dựa vào bờ suối,
triển khai đội hình đánh phản kích. Khẩu trung liên của xạ thru Muôn nhả liên
tiếp hai băng đạn, hạ gục nhiều tên trong toán đi đầu. Bộ đội địa phương huyện Vũng
Tàu cùng hai trung đội của đại đội 3 vận động bao vây, nổ súng buộc địch phải
rút lui.
Bọn biệt kích bu
lại khiêng mấy xác chết và tên chỉ huy bị thương nặng về Long Thành. Trên đường
về, tên chỉ huy đã chết tại dốc Bà Ký. Hắn chính là Souarcot, trung úy chỉ huy
tiểu đoàn biệt kích ác ôn khét tiếng, đã gây nhiều tội ác với đồng bào, đồng
chí của ta ở căn cứ khu Tây và đồng bào huyện Long Thành (Biên Hòa). Tin tiểu
đoàn 300 diệt được Souarcot loan đi rất nhanh. Cả huyện Long Thành, huyện Vũng
Tàu và lực lượng kháng chiến trong toàn tỉnh rất đỗi vui mừng. Sau khi Souarcot
chết hoạt động biệt kích giảm hẳn. Đồng bào Long Thành và Vũng Tàu đã gửi nhiều
thư khen và cảm ơn cán bộ chiến sĩ Tiểu đoàn 300. đồng bào vùng căn cứ khu Tây
yên tâm và hăng hái tăng gia sản xuất.
Tin chiến thắng
Điện Biên Phủ (7/5/1954) làm nức lòng nhân dân cả nước. Các lực lượng vũ trang
trong tỉnh đều xây dựng phương án đánh địch. Ngày 7 tháng 5 năm 1954 quân và
dân huyện Vũng Tàu vô cùng phấn khởi đón nhận tin chiến thắng vang dội trên
chiến trường Điện Biên Phủ. Phối hợp và phát huy thắng lợi của chiến dịch Điện
Biên Phủ, các lực lượng vũ trang tỉnh và huyện đều xây dựng phương án tác chiến
tiến công đồn bót địch. Tiểu đoàn 300 cùng bộ đội địa phương Long Điền-Đất Đỏ
tiến công đồn Long Tân đêm 21 tháng 8 năm 1954 nhưng dứt điểm được.
Bộ đội địa phương
huyện Vũng Tàu nghiên cứu đánh đồn Long Phước. Lực lượng địch đóng tại đây có
từ một đến hai trung đội, do tên Một Mun chỉ huy. Bọn lính thường xuyên lùng
sục vào vùng làng bắt gà vịt, bẻ trái cây của dân ăn không trả tiền. Một Mun
ham gái, thích ai là tìm cách vu khống bắt vào hãm hiếp. Nhân dân lo sợ. Huyện
ủy Vũng Tàu chỉ đạo bộ đội địa phương huyện nghiên cứu quyết tiêu diệt bọn này.
Đại đội trưởng Trần
Văn Lý, đại đội phó Tám Cỏi cùng tiểu đội trinh sát về Long Phước ở dưới hầm bí
mật, ban đêm tung lên bò sát vào hàng rào địch nghiên cứu 6, 7 đêm liền. Kế
hoạch tác chiến như sau: tổ đặc công và trinh sát có nhiệm vụ đem trái mìn FT
15 kg đặt vào lô cốt mẹ, chờ lệnh châm điện. Trung đội 10 có nhiệm vụ đem trái
FT 10 kg áp sát lô cốt số 2. Trung đội 12 do đồng chí Trần Văn Liễn chỉ huy có
nhiệm vụ bí mật cắt hàng rào, chuẩn bị tư thế xung phong sau khi có tiếng súng
nổ làm lệnh đánh sập các lô cốt. Trung đội 14 làm đội dự bị. Mọi kế hoạch phải
làm xong trước 24 giờ đêm 21 tháng 7 năm 1954.
Đơn vị hành quân
lúc 19 giờ từ căn cứ Hắc Dịch. Đội hình vừa rời khỏi căn cứ 1 km, thì có lệnh
hỏa tốc của huyện đội Vũng Tàu đưa xuống. Kèm theo lệnh của huyện đội, còn có
một lệnh chung của Ban chỉ huy tỉnh Bà Rịa-Chợ Lớn do tham mưu trưởng Lương Văn
Nho ký với nội dung: “… Pháp đã thua, Hiệp định Giơnevơ đã ký kết. Ban chỉ huy
ra lệnh ngưng các cuộc hành quân chiến đấu…” Trận đánh cuối cùng đã chuẩn bị
xong đành phải ngưng lại.
Hiệp định Giơnevơ
được ký kết trong đêm 20 tháng 7 năm 1954, thực dân Pháp buộc phải ký kết thúc
chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Các lực lượng vũ trang và công an,
dân chính Đảng của tỉnh và huyện Vũng Tàu đều tập kết về Xuyên Mộc – Hàm Tân
rồi xuống tàu nhỏ tại bến Gò Dầu (Phú Mỹ) để ra cửa Rạch Dừa (Vũng Tàu) chuyển
lên tàu lớn tập kết./.
Bài 19
Tổ chức lại lực lượng
_____________________________
Hiệp định Giơnevơ
được ký kết ngày 20 tháng 7 năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của
nhân dân ta kết thúc thắng lợi. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, miền Nam còn tạm
thời do đối phương kiểm soát. Tuyên bố cuối cùng của Hiệp định ghi rõ: “Các bên
tham gia Hội nghị thừa nhận về nguyên tắc sự độc lập, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của Việt Nam; trong hai năm (tức tháng 7 năm 1956), hai miền sẽ hiệp
thương tổng tuyển cử thống nhất cả nước; quyết định lấy vĩ tuyến 17 là giới
tuyến quân sự tạm thời ở Việt Nam”.
Hiệp định Giơnevơ
là một thắng lợi to lớn của nhân dân ta trong suốt 9 năm kháng chiến, đồng thời
là pháp lý để nhân dân miền Nam
tiếp tục cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Song, cách mạng
miền Nam lại phải đối phó với một kẻ thù nguy hiểm là đế quốc Mỹ, như Nghị
quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ VI (15/7/1954) đã xác định
rõ: Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và “hiện đang trở thành kẻ thù
chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương”.
Trước khi Hiệp định
Giơnevơ được ký kết, đế quốc Mỹ đã sắp đặt một kế hoạch phá hoại hiệp định, phá
hoại hòa bình. Âm mưu chiến lược của đế quốc Mỹ đối với Việt Nam là: “Thay chân
Pháp, phá hoại Hiệp định Giơnevơ, tiêu diệt cơ sở Đảng và phong trào cách mạng
của nhân dân ta, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân
sự của chúng; cùng với Lào và Thái Lan hình thành phòng tuyến ngăn chặn chủ
nghĩa xã hội tràn xuống Đông Nam Á, tiếp đó lấy Nam Việt Nam làm bàn đạp uy
hiếp tiến tới thôn tính Bắc Việt Nam, hòng bao vây uy hiếp các nước xã hội chủ
nghĩa từ phía Nam”.
Ngày 7 tháng 7 năm
1954 đế quốc Mỹ đưa Ngô Đình Diệm (vốn là tay sai Pháp, Nhật được Mỹ nuôi dưỡng
đào tạo ở Mỹ) về miền Nam làm Thủ tướng, lập chính phủ bù nhìn. Tháng 9 năm
1954, Mỹ thành lập khối liên minh phòng thủ Đông Nam Á gồm 3 nước Đông Dương:
Việt Nam ,
Lào, Campuchia nhằm mục đích chống cộng. Tháng 11 năm 1954 chúng cử tướng Côlin
sang miền Nam làm đại sứ và thực hiện kế hoạch 6 điểm của chính quyền Aixenhao
nhằm áp đặt chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta,
biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng ở
vùng Đông Nam Á. Ngày 1 tháng 1 năm 1955 phái đoàn cố vấn quân sự Mỹ MAAG ở Sài
Gòn bắt đầu đảm nhiệm việc “huấn luyện, trang bị” cho quân ngụy, thực chất là
giành quyền chỉ huy trực tiếp quân ngụy, nắm và từng bước cải tổ xây dựng bộ
máy quân sự của chúng ở miền Nam.
Phục vụ cho âm mưu
chiến lược đó, đế quốc Mỹ ráo riết tập trung đầu tư nâng cấp, xây dựng mới hàng
loạt sân bay, bến cảng, kho tàng trong đó có sân bay Vũng Tàu… Hệ thống đường
giao thông thủy bộ cũng được mở rộng để phục vụ cho các hoạt động quân sự. Đặc
biệt là tuyến đường xa lộ Sài Gòn – Biên Hòa (30 km) nối với quốc lộ 15 đi Vũng
Tàu và tuyến đường Sài Gòn – Vũng Tàu.
Trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược trước đây Tân Thành đã là một địa bàn chiến
lược quan trọng, bước sang thời chống Mỹ vị trí chiến lược của Tân Thành lại
càng trọng yếu hơn, với vị trí án ngữ cửa ngõ vào Sài Gòn, “thủ phủ” của chế độ
bù nhìn ở miền Nam, nơi tập trung hầu hết các cơ quan đầu não chỉ đạo cuộc
chiến tranh xâm lược. Do tính chất chiến lược của địa bàn, Mỹ-Diệm đã tổ chức
Sài Gòn thành một yếu khu, miền Đông Nam Bộ thành vùng 3 chiến thuật, căn cứ
đặt tại xã Biên Hòa với một hệ thống cứ điểm quân sự đặt dưới sự yểm trợ của
vùng 3 chiến thuật Biên Hòa.
Mỹ – Diệm gấp rút
đào tạo một đội ngũ tay sai mới, sử dụng các tên ác ôn có nhiều nợ máu với nhân
dân đưa về các địa phương nắm lấy những chức vụ chủ chốt trong bộ máy tề ngụy
cơ sở. Chúng ra sức xây dựng bộ máy tề nghụy các cấp từ trung ương đến cơ sở xã
ấp. Đặc biệt là tập trung mọi nỗ lực để cải tổ, phát triển lực lượng quân sự,
tổ chức quân ngụy, đóng đồn bót, xây dựng và mở rộng căn cứ, hậu cứ quân sự. Ở
Bà Rịa – Vũng Tàu, đã xây dựng nhiều căn cứ quân sự, hải cảng, Trung tâm huấn
luyện, và hậu cứ cho các đơn vị chủ lực. Chúng củng cố vành đai yết hầu này
thành một hậu cứ, “sân sau” của “thủ phủ”, tạo một vành đai an toàn, tạo thế mở
rộng cuộc chiến tranh xâm lược.
Cuối năm 1954 đầu
năm 1955, Mỹ ngụy lừa gạt và cưỡng ép, đưa gần một triệu đồng bào Thiên chúa
giáo ở miền Bắc di cư vào miền Nam. Phần lớn đồng bào được bố trí định cư ở các
tỉnh miền Đông Nam Bộ, tập trung trên các tuyến giao thông chiến lược, quanh
các căn cứ quân sự quan trọng của địch và cắm sâu vào các vùng căn cứ kháng
chiến của ta trước đây. Gần 2 vạn đồng bào Thiên chúa giáo di cư được đưa về Bà
Rịa và Vũng Tàu, cắm dọc theo trục lộ 15, lộ 2 và lộ 23. Trên tuyến lộ 15, đế
quốc Mỹ và tay sai đã bố trí hàng rào dân di cư từ ấp Phước Lộc (Phước Hòa) đến
Kim Hải, nối với cụm dân di cư Long Hương, Phước Lễ, trải dài đến tận Phước
Tỉnh, Hải Đăng, Phước Thắng, Thắng Nhất, Bến Đá, Sao Mai (Vũng Tàu) để án ngữ
các tuyến hành lang chiến lược này. toàn bộ cụm dân di cư ven lộ 15 đều được bố
trí trên tuyến phía bắc con lộ này, án ngữ cửa ngõ vào khu căn cứ Núi Dinh – Thị
Vải.
Năm 1955, chính
quyền Ngô Đình Diệm đã xây dựng xong bộ máy hương thôn, chiếm đóng các đồn bót
khắp xã, huyện. Ở các xã có Hội đồng xã, ban đại diện ấp, các tổng đoàn, xã
đoàn dân vệ, tổ chức mạng lưới cảnh sát mật vụ chìm, nổi khắp nơi. Chúng tung bọn
“công dân vụ”, “dân ý vụ” vào các xã ấp, nắm tình hình nhân sự, lập danh sách
cán bộ, đảng viên và những người kháng chiến cũ, xuyên tạc cách mạng, gây nghi
ngờ chia rẽ trong nhân dân. Với chiêu bài “quốc gia độc lập” giả hiệu, chính
quyền Ngô Đình Diệm đã ra sức tuyên truyền tư tưởng phản động của Đảng Cần lao
Nhân vị, ép buộc nhân dân vào các tổ chức: Phong trào cách mạng quốc gia, Hiệp
hội nông dân, Thanh niên cộng hòa, Phụ nữ cộng hòa, nhất là lôi kéo số cán bộ
kháng chiến thoái hóa, biến chất làm tay sai cho chúng để đánh phá phong trào
cách mạng ở các xã trong tỉnh.
Ngô Đình Diệm ban
hành đạo vụ số 1 bắt nông dân đóng tô cho địa chủ, khôi phục giai cấp địa chủ,
làm nền cho chế độ bù nhìn của chúng. Đạo dụ số 2 được Ngô Đình Diệm ban hành
ngày 8 tháng 1 năm 1955 buộc nông dân phải lập khế ước tá điền loại A đối với
ruộng đang canh tác, thời hạn khế ước là 5 năm. Mức đóng tô mới được quy định
từ 15 đến 20%. Bãi bỏ “ ủy ban điền giải” để thành lập “Ủy ban nông vụ” ở các
cấp do cai tổng, quận trưởng và tỉnh trưởng làm chủ tịch để giải quyết tranh
chấp ruộng đất giữa nông dân và địa chủ. Thực chất của chỉ dụ số 2 và lập khế
ước loại A là tái xác nhận quyền sở hữu ruộng đất của địa chủ, phủ nhận quyền
sở hữu của nông dân trên những mảnh ruộng mà chính quyền cách mạng đã cấp cho
họ trong kháng chiến chống Pháp. Mức tô nộp của địa chủ đã bị tịch thu và tính
cả thời gian mà chúng bỏ chạy không trực tiếp quản lý. Chỉ dụ số 2 làm cho
nhiều nông dân trở thành trắng tay, giai cấp địa chủ sống lại ở nông thôn.
Ngoài bộ máy tề
ngụy các cấp, chúng còn tổ chức đưa bọn công dân vụ, công an chìm, nổi, bọn
tình báo trá hình trong các đoàn “xây dựng hương thôn”, “diệt trừ sốt rét”…
luồn về các xóm ấp, vào sâu các vùng đồng bào dân tộc, các sở cao su… điều tra
thăm dò tình hình, lập danh sách những người kháng chiến, những gia đình có
liên hệ với cách mạng, phân loại dân chuẩn bị cho các chiến dịch “tố cộng”,
“diệt cộng” sau này. Mặt khác chúng tuyên truyền lừa mị dân chúng bằng cách tổ
chức các đảng phái, đoàn thể phản động như “Đảng cần lao nhân vị”, “Phong trào
cách mạng quốc gia”, các tổ chức “Công đoàn vàng”, các đoàn thể “Thanh niên
cộng hòa”, “Phụ nữ liên đới”. Thâm độc hơn, địch thiết lập hệ thống kìm kẹp
nhân dân rất chặt chẽ bằng cách cứ 5 hộ gia đình lập ra “ngũ gia liên bảo” để
kiểm soát mọi hoạt động, sinh hoạt của mỗi người dân, gây nghi ngờ chia rẽ nhân
dân, khống chế, theo dõi những đảng viên Cộng sản được cách mạng bố trí lại.
Mục tiêu trọng tâm của Mỹ Diệm là tạo thực lực cả về quân sự và chính trị xã
hội để đánh phá cách mạng, triệt hạ mọi cơ sở hạ tầng của Đảng.
Sau ngày đình
chiến, huyện Vũng Tàu bố trí cho các đồng chí thuộc lực lượng vũ trang về khu
tập kết 80 ngày ở Hàm Tân – Xuyên Mộc, phiên chế vào trung đoàn Bà Chợ. Các cán
bộ Huyện ủy đã được dự lớp huấn luyện của Tỉnh ủy dành cho các đồng chí ở lại,
quán triệt thắng lợi của Hiệp định Giơnevơ (1954), xác định tình hình nhiệm vụ
mới.
Các cán bộ thuộc
diện ở lại được bố trí theo từng cụm dân cư từ vùng căn cứ về vùng địch kiểm
soát, sinh sống hợp pháp, chuẩn bị cho một giai đoạn đấu tranh mới. Nhiệm vụ
chung của cán bộ, đảng viên ở lại là xây dựng cơ sở chính trị rộng rãi trong
các tầng lớp nhân dân, lãnh đạo quần chúng đấu tranh dân sinh dân chủ theo tinh
thần của Hiệp định Giơnevơ (1954), chống khủng bố những người kháng chiến (Điều
14C). Đây là một giai đoạn vô cùng khó khăn, khi phải chuyển từ phương thức đấu
tranh vũ trang sang phương thức đấu tranh chính trị; ta không còn lực lượng vũ
trang mà đấu tranh với địch chỉ bằng lực lượng chính trị của quần chúng trên cơ
sở pháp lý Hiệp định Giơnevơ.
Lòng tin vào sự
nghiệp cách mạng của Đảng, tin tưởng vào Bác Hồ kính yêu và tin vào sự thắng
lợi tất yếu của nhân dân Bà Rịa-Vũng Tàu nói chung, của nhân dân Tân Thành nói
riêng vẫn trước sau như một. Tuy vậy đồng bào vẫn không khỏi băn khoăn lo lắng
khi chính quyền cách mạng không còn, lực lượng vũ trang và phần lớn cán bộ,
đảng viên xuống tàu tập kết ra Bắc./.
Bài 20
Chuyển phương châm đấu tranh chính trị
________________________________
Ngày 22 tháng 7 năm
1954, trong thư gửi đồng bào miền Nam ngay sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký
kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào cả nước. Người nói rõ: “Đồng
bào miền Nam
kháng chiến trước hết giác ngộ rất cao. Tôi tin chắc rằng đồng bào sẽ đặt lợi
ích của cả nước lên trên lợi ích của địa phương, lợi ích lâu dài lên trên lợi
ích trước mắt mà ra sức cùng đồng bào toàn quốc phấn đấu để củng cố hòa bình,
thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ trong toàn quốc. Đảng, chính
phủ và tôi luôn luôn theo dõi sự cố gắng của đồng bào. Tôi tin chắc đồng bào sẽ
thắng lợi…”
Ngày 23 tháng 7 năm
1954, Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị chỉ đạo các địa phương tiến hành giáo
dục cán bộ, chiến sĩ và nhân dân nhận rõ thắng lợi của Hiệp định và không được
mơ hồ mất cảnh giác với âm mưu đế quốc, nắm vững điều thứ 14C của Hiệp định để
làm cơ sở pháp lý đấu tranh chính trị: “Mỗi bên cam kết không dùng cách trả thù
hay phân biệt đối xử nào đối với cá nhân hoặc tổ chức vì lý do hoạt động của họ
trong lúc chiến tranh, và cam kết bảo đảm những quyền tự do dân chủ của họ”.
Tháng 9 năm 1954,
Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng ra nghị quyết về tình hình nhiệm vụ
mới, quyết định giải thể Trung ương Cục miền Nam và thành lập Xứ ủy Nam Bộ. Xứ
ủy giải thể các Phân liên khu trong kháng chiến chống Pháp, tổ chức lại thành 3
Liên tỉnh ủy: Miền Đông, miền Trung, miền Tây và lập Thành ủy thành phố Sài Gòn
- Chợ Lớn - Gia Định. Liên tỉnh miền Đông được thành lập, đồng chí Phan Đức, Xứ
ủy viên là Bí thư Liên tỉnh ủy.
Xứ ủy quyết định giải
thể tỉnh Bà Chơ, thành lập Tỉnh ủy Bà Rịa do đồng chí Nguyễn Kế Hoa là Bí thư.
Tỉnh ủy chủ trương phát triển cơ sở trong quần chúng, tập hợp mọi lực lượng vào
các tổ chức hợp pháp, bán hợp hợp pháp. Lấy đấu tranh dân sinh dân chủ, đòi
hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước, chủ động xây dựng lực lượng kể
cả đảng viên, đoàn viên, cốt cán cảm tình cách mạng đưa vào lực lượng tề xã,
ngụy quân các loại làm cơ sở nội tuyến để hỗ trợ phong trào đấu tranh và để sử
dụng tiến công địch khi có thời cơ.
Dưới sự lãnh đạo
của Đảng bộ các cấp, phong trào đấu tranh chính trị của các tầng lớp nhân dân
trong tỉnh đã dấy lên mạnh mẽ rộng khắp. Những cuộc đấu tranh trên quy mô lớn
của công nhân cao su và nông dân vùng lộ 2, đấu tranh của các tầng lớp nhân dân
Thị xã Cấp, thị xã Bà Rịa và các huyện Long Điền, Đất Đỏ đã diễn ra rất sôi nổi
từ cuối năm 1954 đến năm 1955.
Tuy nhiên, do những
nét đặc thù, phong trào đấu tranh chính trị trên địa bàn Tân Thành trong thời
kỳ này có những hạn chế nhất định. Trong những năm 1952-1954, do địch đánh phá
ác liệt, một phần lớn nhân dân các xã vùng lộ 15 và vùng Rừng Sác đã ly hương.
Chi bộ xã cũng không bám được dân, các đảng viên theo nhân dân ly hương
cũng không liên lạc được với tổ chức. Sau ngày đình chiến, từ cuối năm 1954 qua
năm 1955, đồng bào mới từ Thạnh An, Cần Giờ, Bà Trao-Núi Nứa trở về định cư.
Các xã hầu như chưa xây dựng lại được chi bộ. Vì thế, trong khi phong trào đấu
tranh chính trị trong tỉnh diễn ra khá sôi nổi trên các địa bàn thì hầu như
phong trào vùng lộ 15 vẫn còn trầm lắng.
Về mặt tổ chức, địa
bàn lộ 15 trong kháng chiến chống Pháp thuộc huyện Vũng Tàu. Từ tháng 10 năm
1954, tỉnh Bà Rịa được thành lập lại, Huyện ủy Vũng Tàu mới củng cố các cơ sở
Đảng ở Thị xã Cấp (Vũng Tàu) và Bà Trao - Núi Nứa mà chưa với tới vùng lộ 15.
Đồng chí Nguyễn Đăng Khoa (Huyện ủy viên Vũng Tàu) đã qua vùng rừng Sác Hội
Bài, Bà Trao-Núi Nứa xây dựng cơ sở rồi bị địch bắt ở Cần Giờ. Đồng chí Nguyễn
Ân Thưởng (Thị ủy viên Bà Rịa) được chỉ định phụ trách địa bàn lộ 15 cũng bị
địch bắt. Cán bộ, đảng viên và cơ sở cách mạng trên địa bàn Tân Thành chưa được
tổ chức lại. Cho đến khi Tỉnh ủy quyết định thành lập Huyện ủy Châu Thành (giữa
năm 1957), cơ sở Đảng vùng lộ 15 vẫn chưa được khôi phục. Một số đảng viên và
quần chúng cách mạng trên địa bàn chủ động làm công tác vận động quần chúng,
xây dựng cơ sở cách mạng và tuyên truyền các chủ trương của Đảng trong thời kỳ
này, trong đó có đồng chí Nguyễn Văn Kia ở Phước Tấn (Phước Hòa), Năm Thâm,
Chín Kiềm, Sáu Tới ở Phú Mỹ…
Theo phương châm
hoạt động lúc đó, các đảng viên hình thành “tổ nòng cốt rễ chuỗi”. Mỗi cán bộ,
đảng viên quan hệ chặt chẽ bí mật với một số cốt cán cơ sở. Mỗi cốt cán lại
quan hệ nắm một số quần chúng tích cực. Mỗi quần chúng tích cực lại quan hệ xây
dựng một số quần chúng khác từ đó mà xây dựng các “lõm chính trị” trong nhân
dân.
Ngày 4 tháng 3 năm
1955, Mỹ Diệm tiến hành bầu cử quốc hội Việt Nam Cộng Hòa. Đây là hành động
trắng trợn vi phạm hiệp định Giơnevơ, đi ngược lại nguyện vọng thiết tha của
đồng bào ta là hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Bộ mặt quốc gia
giả hiệu của Diệm ngày càng lộ rõ. Tháng 10 năm 1955, Mỹ –Diệm tổ chức “Trưng
cầu dân ý”, truất phế Bảo Đại đưa Ngô Đình Diệm lên làm tổng thống. Phong trào
đấu tranh chống “Trưng cầu dân ý” diễn ra sôi nổi, nhân dân tìm cách né tránh,
không đi bầu, nếu buộc phải đi bầu thì tìm cách xé phiếu hoặc bôi lem rồi bỏ
vào thùng. Cũng trong tháng 10 năm 1955, Ngô Đình Diệm ra dụ số 2 tước quyền sở
hữu ruộng đất của nông dân, buộc nông dân phải làm khế ước ruộng đất với bọn
địa chủ, truy nộp đủ thuế trong những năm kháng chiến, thu hồi số ruộng đất
cách mạng cấp phát cho nông dân.
Giữa năm 1957, Tỉnh
ủy Quyết định thành lập Huyện ủy Châu Thành, đồng chí Nguyễn Văn Nghiệp (tức Tư
Hoàng Sào) làm Bí thư, đồng chí Trần Văn Nhượng (tức Tư Quy) là Phó Bí thư. Ban
cán sự cao su cùng chi bộ các xã Nam-Bắc lộ 15, Hòa Long, Long Phước trực thuộc
Huyện ủy Châu Thành. Theo chỉ đạo chung, Huyện ủy Châu Thành bố trí một số đảng
viên, đoàn viên vào lực lượng tề ngụy ở xã ấp, xây dựng cơ sở nội tuyến trong
lòng địch với phương châm “xanh vỏ đỏ lòng”. Các đồng chí Nguyễn Văn Nghiệp (Bí
tư Huyện ủy), Trần Văn Nhượng (Phó Bí thư Huyện ủy) đã về tổ chức cơ sở vùng lộ
15, bố trí anh Tám Chốn (tức Hứa Văn Chốn) vào lực lượng dân vệ xã Phú Mỹ.
Song song với các
chiến dịch thanh toán các phe phái đối lập, ngụy quyền Sài Gòn triển khai chiến
dịch “tố cộng”, “diệt cộng”, khủng bố những người kháng chiến. Bước một của
chiến dịch tố cộng, chúng tiến hành đổi thẻ căn cước nhằm phân loại dân cư. Loại
A gồm những đảng viên, cán bộ và người kháng chiến bị chúng liệt vào loại “công
dân bất hợp pháp”; Loại B gồm những người có dính líu đến kháng chiến như cha,
mẹ, vợ, chồng, anh em, con cái của đảng viên, cán bộ, du kích… bị chúng liệt
vào loại “công dân nửa hợp pháp”. Loại C gồm những người gọi là “Không liên
quân với cách mạng”. Thủ đoạn của địch là dựa vào loại C, đánh vào loại A và
phân hóa loại B; buộc những người kháng chiến cũ phải ra trình diện, nhận giấy
chứng nhận “cán bộ hồi cư” để quản thúc, khi có lệnh của chúng phải ra đồn bót
hoặc trụ sở tề ngủ đêm, đến sáng mới được về nhà.
Bước hai “Tố cộng”
được mở màn bằng một chiến dịch tuyên truyền qui mô rộng lớn trên tất cả các
phương tiện thông tin đại chúng, bằng nhiều hình thức, nhằm xuyên tạc kháng
chiến, bôi nhọ cách mạng, phủ nhận công lao của Đảng Cộng sản trong kháng chiến
chống thực dân Pháp, tô son trát phấn cho chế độ tay sai ở Sài Gòn với các
chiêu bài “đả thực, bài phong, diệt cộng” tạo uy thế chính trị và cơ sở xã hội
cho chính quyền các cấp của Mỹ Diệm.
Trước tình hình đó,
nhân dân các xã đã bằng nhiều hình thức đấu tranh với địch để giữ gìn lực lượng
nhằm chống lại kế hoạch phân loại để phát hiện cộng sản của địch. Nhân dân ta
đã nêu cao pháp lý của hiệp định nhất là điều 14C cấm bắt bớ trả thù những
người kháng chiến cũ, tận dụng cả 3 thế hợp pháp, nửa hợp pháp, bất hợp pháp để
đấu tranh. Nói xấu cộng sản, nói xấu kháng chiến, giặc đã xúc phạm đến tình cảm
thiêng liêng của đồng bào. Lòng tin đối với Đảng với Bác Hồ và bao chiến sĩ cách
mạng đã tạo thành sức mạnh và ý chí quyết tâm, đồng thời nảy sinh trong quần
chúng nhân dân trăm phương nghìn kế để chống trả cuộc tiến công kẻ thù./.
Bài 21
Hình thành các đội vũ trang tuyên truyền, hỗ trợ đấu
tranh chính trị
______________________________
Trong thời kỳ đấu
tranh chính trị, nhiều cơ sở Đảng tiếp tục bị tổn thất. Mặc dù tổ chức bí mật,
song hoạt động công khai và đấu tranh công khai khiến các cán bộ đảng viên
trung kiên, hăng hái sớm bị lộ; khi địch khủng bố thì những nơi có phong trào
đấu tranh mạnh đều bị tổn thất nặng. Tâm tư tình cảm của cán bộ, đảng viên và
cơ sở cách mạng xuất hiện những băn khoăn lo lắng trước tổn thất ngày càng to
lớn của phong trào. Nhiều đồng chí không thể hoạt động hợp pháp trong dân, phải
tạm lánh ra rừng sống bất hợp pháp ở khu tây lộ 2, núi Thị Vải, Hắc Dịch để
tiếp tục gây dựng phong trào.
Từ cuối năm 1955,
sau nhiều trận đọ súng với quân đội Sài Gòn, lực lượng Bình Xuyên bại trận chạy
về đóng quân rải rác từ Rừng Sác, núi Thị Vải, Rừng Giồng Châu Pha, Cẩm Mỹ,
Bình Ba Cây Táo… Liên tỉnh ủy Miền Đông Nam Bộ đã cử một phái đoàn vào gặp lực
lượng Bình Xuyên (5/1955) để bàn việc liên hiệp với cách mạng chống chế độ Mỹ -
Diệm. Cuộc thảo luận thứ hai (tháng 9 năm 1955) ở cấp cao hơn gồm các đồng chí
Võ Văn Khánh, Bí thư Liên tỉnh ủy Miền Đông Nam Bộ, Hoàng Đạo, Phó Ban binh vận
Xứ ủy và Nguyễn Trọng Tâm, cán bộ binh vận Liên tỉnh ủy. Phái đoàn ta đã thuyết
phục được Trung tá Võ Văn Môn, chỉ huy một tiểu đoàn Bình Xuyên ly khai, đưa về
Chiến khu Đ, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng.
Tỉnh ủy đã giao
nhiệm vụ cho đồng chí Võ Văn Thiết về khu vực Rừng Giồng lộ 15 vận động các
toán tàn quân Bình Xuyên đi theo cách mạng, cải biến thành đội vũ trang tuyên
truyền. Đại úy Nguyễn Văn Đây và 12 lính Bình Xuyên đang náu tại Rẫy Thơm (Phú
Mỹ) đã giác ngộ, mang theo 13 khẩu súng (có một trung liên) đưa về căn cứ bí
mật ở Thị Vải.
Tháng 12 năm 1956,
gần 500 tù chính trị đã phá khám Biên Hòa, vượt ngục thắng lợi. Cán bộ đảng
viên vượt ngục tập hợp thành từng đoàn, cắt rừng trở về các địa phương tiếp tục
công tác. Đoàn tù chính trị tỉnh Bà Rịa (gần 20 đồng chí) do đồng chí Trần Văn
Bửu (tức Sáu Tâm) phụ trách trở về vùng căn cứ Hắc Dịch tháng 1 năm 1957. Đồng
chí Lê Minh Hà đã thay mặt Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho đồng chí Trần Văn Bửu tổ
chức cho anh em học tập chính trị, kiểm điểm tại Hắc Dịch và tổ chức lại dưới
hình thức vũ trang tuyên truyền.
Đoàn tù chính trị
thứ hai gồm hơn 100 đồng chí thuộc các tỉnh Sài Gòn – Gia Định và miền Tây Nam
Bộ do đồng chí Sáu Chuộng phụ trách cũng cắt rừng về Hắc Dịch để tìm đường trở
về địa phương. Cùng thời gian này, đơn vị vũ trang do Nguyễn Quốc Thanh phụ
trách được Liên Tỉnh ủy miền Đông Nam Bộ điều từ Rừng Sác (Nhơn Trạch) về Rừng
Giồng, hoạt động từ suối Tà Ngân (một nhánh của Suối Cả) đến Hắc Dịch với nhiệm
vụ xây dựng căn cứ, đón và bảo vệ các đoàn tù chính trị vượt ngục, tạo điều
kiện giúp các đoàn tù chính trị trở về địa phương.
Sau khi bảo vệ đoàn
tù chính trị miền Tây Nam Bộ và Sài Gòn – Gia Định vượt Rừng Sác về địa phương,
đơn vị của Nguyễn Quốc Thanh đã được lệnh trở lại xây dựng căn cứ Hắc Dịch, từ
tháng 5 năm 1957. Trên địa bàn Bà Rịa-Vũng Tàu đã hình thành hai đội vũ trang
tuyên truyền, một đội của tỉnh đóng ở Hắc Dịch do hai đồng chí Trần Văn Bửu và
Đỗ Văn Chương (tức Ba Liên) phụ trách và đội thứ hai của miền đóng ở khu vực
Phước Thái do đồng chí Nguyễn Quốc Thanh phụ trách. Đó là những đơn vị tiền
thân của lực lượng vũ trang Bà Rịa-Vũng Tàu.
Trước tình hình Mỹ -
Diệm trắng trợn phá hoại Hiệp định Giơnevơ thẳng tay đàn áp bắn giết, bắt bớ
giam cầm hàng vạn cán bộ, đảng viên quần chúng yêu nước ở miền Nam , nhiều nơi
nhân dân thiết tha đề nghị với Đảng dùng vũ khí diệt ác ôn. Xứ ủy Nam Bộ đã chủ
trương vũ trang tự vệ và vũ trang tuyên truyền trong một chừng mực để hỗ trợ
cho đấu tranh chính trị. Nhằm hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị, đội vũ
trang tuyên truyền của tỉnh do đồng chí Trần Văn Bửu (tức Vũ Tâm) chỉ huy từ
căn cứ Hắc Dịch đã triển khai đội hình tiến công dinh điền Thanh Tóa (Xuyên
Mộc), dưới danh nghĩa lực lượng vũ trang giáo phái. Trận đánh này ta còn thu
được một số tiền để giải quyết vấn đề hậu cần trong căn cứ.
Sau trận tiến công
dinh điền Thanh Tóa, Đội Vũ trang tuyên truyền tiếp tục hỗ trợ cho chi bộ xã
Hòa Long tổ chức diệt tên Cỏn, công an xã Hòa Long, một tên phản bội nguy hiểm,
khiến bọn ác ôn ở khu vực Tam Long co lại. Sau trận này, đơn vị được lệnh ngưng
các hoạt động vũ trang, diệt ác, rút toàn bộ lực lượng về Rạch Chanh. Chủ
trương của Đảng chưa cho phép phát triển lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang.
Đầu năm 1958, Ban
quân sự Miền đã cử đồng chí Lê Minh Thịnh (tức Sáu Thịnh) đưa một tiểu đội và
một máy VTĐ về Bà Rịa tổ chức lực lượng vũ trang. Giữa năm 1958, tại Suối Quýt,
đơn vị C.40 được thành lập, đồng chí Lê Minh Thịnh làm Chỉ huy trưởng, đồng chí
Nguyễn Quốc Thanh là chỉ huy phó. Đơn vị có hơn 40 cán bộ chiến sĩ, phiên chế
thành hai trung đội, vũ khí mới đủ trang bị cho một trung đội. Đơn vị có một
chi bộ Đảng và một chi đoàn Thanh niên lao động. Căn cứ của đơn vị đóng ở khu
vực Hắc Dịch. Nhiệm vụ trước mắt là củng cố lực lượng, vũ trang tuyên truyền hỗ
trợ cho đấu tranh chính trị dưới danh nghĩa lực lượng vũ trang giáo phái. Các
đồng chí Lê Minh Hà (Tỉnh ủy viên), Đỗ Văn Chương (Chi ủy viên C.40), biên soạn
các tài liệu “Chiến đấu vì ai”, “Khó khăn khắc phục” huấn luyện cho đơn vị.
Đơn vị tổ chức huấn
luyện những bài quân sự cơ bản, dành phần lớn thời gian học chính trị, xây dựng
căn cứ và sản xuất tự túc, làm rẫy, trồng lúa, bắp, mì, lấy mật ong, lượm trái
ươi, bứt mây, đẽo cột chèo rồi nhờ các cơ sở ở Hắc Dịch đưa đi bán lấy tiền mua
nhu yếu phẩm tự túc hậu cần. Có lúc thiếu gạo, phải đào củ rừng ăn đỡ đói,
thiếu muối, anh em phải đốt tre nứa ăn thay vị mặn. Hoạt động của đơn vị đều
giữ bí mật tuyệt đối, kể cả với đồng bào. Căn cứ của đơn vị đóng ở khu vực Hắc
Dịch (Bưng Lùng). Sự thành lập đơn vị 40 là một sự kiện quan trọng đánh dấu
nước khởi đầu hình thành và phát triển lực lượng vũ trang ở Bà Rịa-Vũng Tàu
trong kháng chiến chống Mỹ./.
Bài 22
Tham gia đồng khởi và chuyển lên đấu tranh vũ trang
_______________________________
Từ cuối năm 1959,
do địch khủng bố ngày càng phát xít, nhiều cán bộ đảng viên không còn điều kiện
hoạt động hợp pháp đã buộc phải chuyển phương châm bất hợp pháp, hình thành các
lõm căn cứ bí mật tại Châu Pha (Hắc Dịch), Thị Vải (Châu Thành). Nhiều cán bộ
bị lộ cũng rút vào rừng, chuyển phương châm hoạt động, chuẩn bị cho bước phát
triển của cách mạng. Mặc dù chưa chính thức xây dựng căn cứ địa cách mạng, song
vùng rừng núi Tân Thành đã trở thành nơi tập trung lực lượng, chuẩn bị cho bước
phát triển mới của phong trào cách mạng.
Tháng 10 năm 1959,
do Nguyễn Triệu Khải phản bội, địch phá được văn phòng Tỉnh ủy tại Vũng Tàu,
bắt nhiều cán bộ và cơ sở cách mạng. Sau một thời gian khắc phục hậu quả tổn
thất trong các đợt vây ráp, khủng bố của địch, đại bộ phận cán bộ của văn phòng
Tỉnh ủy và các cơ quan trực thuộc đã rút khỏi Vũng Tàu. Tỉnh ủy dựa vào Huyện
ủy Châu Thành xây dựng căn cứ bí mật vùng Núi Nghệ (Hòa Long), sau đó mở căn cứ
Châu Pha-Hắc Dịch.
Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 15 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (1/1959) đã xác định con đường
phát triển cơ bản của cách mạng miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay
nhân dân. Nghị quyết 15 đã mở ra một bước ngoặt lớn cho cách mạng miền Nam nói chung
cũng như cho phong trào cách mạng của tỉnh và huyện. Được Đảng chủ trương cho
cầm vũ khí đánh giặc, cán bộ, chiến sĩ và nhân dân Bà Rịa-Vũng Tàu vô cùng phấn
khởi.
Tỉnh ủy tổ chức
quán triệt Nghị quyết 15 tại căn cứ suối Đá Đen tháng 2 năm 1960, phát động
nhân dân trong toàn tỉnh nổi dậy diệt ác, phá kềm giành quyền làm chủ xã ấp.
Nghị quyết 15 được triển khai làm nhiều đợt, cho cán bộ chủ chốt của tỉnh và
huyện. Tỉnh ủy chỉ đạo lực lượng vũ trang phải ra quân đánh thắng trận đầu để
tạo khí thế cho phong trào nổi dậy và kết hợp đấu tranh vũ trang trong toàn
tỉnh. Ngay trong thời gian đang triển khai nghị quyết 15 tại Hội nghị mở rộng,
đồng chí Phạm Văn Hy, Bí thư Ban cán sự cao su đã được lệnh phát động quần
chúng, tự vệ mật phối hợp cùng C.40 tiến công đồn Bình Ba, mở màn cho phong
trào vũ trang khởi nghĩa nổi dậy trong toàn tỉnh.
Đêm 12 tháng 3 năm
1960, với sự phối hợp của lực lượng tự vệ mật công nhân cao su, C.40 đồng loạt
tiến công các bót hiến binh, bảo an và dân vệ ở trung tâm đồn điền, diệt tên
trưởng bót hiến binh, bắn bị thương nhiều tên khác, thu 8 khẩu súng trong đó có
một trung liên. Công nhân cao su đốt đuốc, nổi trống, mõ vang động khắp vùng,
trấn áp bọn tề ngụy, diệt tên xu Nuôi ác ôn khét tiếng ở Bình Ba làng. Chiến
thắng Bình Ba tác động mạnh mẽ đến hành động cách mạng của quần chúng.
Tháng 4 năm 1960,
Tỉnh ủy củng cố Ban quân sự, đồng chí Lê Minh Thịnh được cử là Trưởng ban; đồng
chí Nguyễn Quốc Thanh và đồng chí Nguyễn Văn Đại là Phó ban. Ban quân sự tỉnh
tách cán bộ khung từ C.40, tuyển tân binh, thành lập C.45 bộ đội tỉnh do đồng
chí Nguyễn Quốc Thanh phụ trách, đứng chân ở Hắc Dịch, xây dựng lực lượng và tổ
chức huấn luyện. Tháng 5 năm 1960, từ căn cứ Hắc Dịch, C.45 tổ chức đánh vào
đồn điền Xà Bang thu 120 ngàn đồng (tiền ngụy).
Phong trào cách
mạng vùng lộ 15 còn yếu. Tỉnh ủy cử đồng chí Trần Ngọc Bửu phụ trách một đội
công tác, vũ trang tuyên truyền dọc lộ 15 để xây dựng cơ sở. Nhờ có các cơ sở ở
Phú Mỹ – Hắc Dịch cung cấp tình hình, C.45 đã ra quân đánh thắng một trận giòn
giã tại Hắc Dịch. Từ nguồn tin của các cơ sở binh vận ở Hắc Dịch, ta nắm được
quy luật của địch, mỗi tuần chúng đưa quân từ Phú Mỹ vào thay một lần vào ngày
thứ sáu. Phương thức tác chiến là phục kích, địa điểm được chọn là khu vực Bến
Tàu, phía trên là Rừng Giồng, phía dưới là mé bưng. Đồng chí Nguyễn Quốc Thanh
chỉ huy trưởng, các đồng chí Lê Thành Ba, Trần Văn Bửu và Nguyễn Văn Thuận (tức
Hai Súng) là chỉ huy phó.
Theo nguồn tin của
cơ sở báo ra, bót Hắc Dịch có 55 tên địch (hai trung đội), định kỳ hàng tháng,
chúng đưa một lực lượng tương đương vào đổi quân. C.45 lúc đó mới có hai tiểu
đội được trang bị vũ khí, trong đó có một cây FM. Ban quân sự tỉnh điều lực
lượng tăng cường từ các huyện và đội bảo vệ của Tỉnh ủy, tổng cộng 41 tay súng.
Huyện Long Đất tăng cường một tổ (3 đồng chí) do đồng chí Lê Văn Việt chỉ huy;
huyện Châu Thành cử 3 đồng chí do Trần Lương chỉ huy, ban cán sự Cao su cử 3
đồng chí do Nguyễn Văn Cao chỉ huy; đội bảo vệ Tỉnh ủy góp 3 tay súng do Trần
Văn Cường chỉ huy. Quân giới của tỉnh chế tạo được Moọcchê giật đưa ra sử dụng
trong trận này. đồng chí Nguyễn Quốc Thanh bị thương ở chân trong trận đánh Xà
Bang, phải nhờ anh em cáng ra trận, với quyết tâm chỉ huy đơn vị đánh thắng
trận đầu.
Trận đánh diễn ra
với những tình huống phát sinh không lường trước được. Trước đó, địch đưa về
Phú Mỹ một đại đội biệt kích, chúng bố trí thêm một trung đội biệt kích tham
gia cuộc đổi quân ở Hắc Dịch. Lực lượng ta chỉ có một đại đội thiếu đã phải
đương đầu với một đại đội tăng cường của địch.
Địch hành quân đến
đúng trận địa phục kích của ta thì chúng dừng lại để đổi quân. Phương án của
trận đánh là đợi cho địch thay quân xong, sẽ nổ súng diệt bộ phận trở về bót,
nhưng một tình huống đột xuất khác đã xảy ra. Một tên lính đi ra rừng, đụng
trận địa phục kích. Ban chỉ huy quyết định nổ súng, đánh luôn cả đại đội địch.
Bị đánh bất ngờ ở một cự ly gần, với hỏa lực áp đảo từ bãi mìn, súng ngựa trời
và các loại súng bộ binh, địch bị tiêu diệt một phần lớn. Ta bắt sống 10 tên,
thu trên 50 khẩu súng, trong đó có 3 trung liên FM, những tên sống sót hoảng
loạn chạy thục mạng vào rừng. Các cơ sở nội tuyến ở Hắc Dịch đã đưa toàn bộ lực
lượng dân vệ xã quay súng trở về tham gia lực lượng vũ trang cách mạng. Xã Hắc
Dịch được hoàn toàn giải phóng. Vũ khí thu được trong trận đánh được phân chia
cho các huyện để xây dựng bộ đội địa phương huyện.
Đây là một trận
thắng lớn, diệt gọn một đại đội tăng cường, thu nhiều vũ khí, giải phóng hoàn
toàn một xã đầu tiên trong tỉnh, thu nhiều vũ khí, góp phần phát triển lực
lượng vũ trang và củng cố căn cứ cách mạng của huyện và của tỉnh. Hắc Dịch trở
thành căn cứ địa của Tỉnh ủy Bà Rịa, Huyện ủy Châu Thành (sau đó là huyện Châu
Đức) trong suốt những năm kháng chiến chống Mỹ sau này. Nhân dân Hắc Dịch phấn
khởi xây dựng căn cứ kháng chiến.
Giữa năm 1960, Tỉnh
ủy đã triển khai tinh thần Nghị quyết 15 của Ban chấp hành Trung ương Đảng cùng
những kinh nghiệm đồng khởi của Bến Tre cho các Huyện ủy và cơ sở. Tại khu vực
lộ 15, Xã đội trưởng Phú Mỹ Nguyễn Văn Thâm diệt tên Khá, dân vệ ác ôn trưởng
đồn Mỹ Xuân và sau đó tổ chức phục kích lần thứ hai, diệt tên Thành đồn trưởng
mới về nhậm chức. Dân vệ đồn Mỹ Xuân mang súng ra vùng giải phóng ngày càng
nhiều.
Mặt trận dân tộc
giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời ngày 20 tháng 12 năm 1960 đánh dấu một bước
phát triển quan trọng của cách mạng miền Nam, tập hợp rộng rãi các tầng lớp
nhân dân chống chế độ Mỹ – Diệm. Các tầng lớp nhân dân Bà Rịa -Vũng Tàu vô cùng
phấn khởi, bước vào giai đoạn mới, phát triển cuộc đấu tranh từ chính trị
chuyển lên đấu tranh vũ trang, dưới ngọn cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam. Từ Hắc Dịch, Ban tuyên huấn đã biên soạn, in ấn hàng vạn bản
cương lĩnh Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã được phân phát cho
các cơ sở cách mạng trên địa bàn tỉnh.
Trước khí thế của
phong trào Đồng khởi, ngụy quân, ngụy quyền hoang mang, đồng bào đi lại làm ăn
được dễ dàng và tích cực ủng hộ cách mạng. Huyện ủy cử đồng chí Tám Phèn (tức
Lê Văn Lễ, Lê Văn Phương) và một số cán bộ tăng cường từ Long Sơn như Võ Văn
Vàng, Võ Văn Thay, Ba Nhớ, Nguyễn Văn Sơn, Hồng, Minh, Đồng, thành lập một đội
công tác xây dựng cơ sở vùng lộ 15. đội công tác liên lạc được với các đồng chí
Nguyễn Văn Kia là cơ sở cũ ở ấp Phước Tấn và một số cơ sở ấp Ông Trịnh, kịp
thời bổ sung nguồn cán bộ nòng cốt cho xã, thay thế các cán bộ Long Sơn tăng
cường./.
Bài 23
Phát triển lực lượng, đẩy mạnh đấu tranh chính trị kết
hợp vũ trang
_________________________________
Đứng trước nguy cơ
sụp đổ của ngụy quyền Sài Gòn, đế quốc Mỹ buộc phải chuyển hướng, chuyển sang
chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” với biện pháp chủ yếu là tăng quân chủ lực
ngụy và cố vấn Mỹ, trang bị vũ khí hiện đại, tập trung lực lượng quân sự đánh
phá các căn cứ của ta, tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng, bình định nông
thôn, trong đó, chương trình “bình định” và lập “ấp chiến lược” được nâng lên
thành “quốc sách”, với mục tiêu bình định miền Nam trong vòng 18 tháng.
Sau một năm Đồng
khởi, cho đến giữa năm 1961, trên địa bàn Bà Rịa-Vũng Tàu, nhân dân đã nổi dậy
giành chính quyền làm chủ nhiều xã ấp. Ta đã giải phóng hoàn toàn vùng căn cứ
Hắc Dịch, Châu Pha nối liền với vùng giải phóng ấp Bắc, ấp Đông, ấp Nam (xã
Long Phước), ấp Bắc, ấp Đông xã Hòa Long và các cơ sở cao su dọc theo lộ 2,
Bình Ba, Ngãi Giao, Xuân Sơn, Xà Bang… nhân dân đã thực sự làm chủ, bọn địch co
lại trong các đồn bót, lực lượng dân vệ hoang mang rệu rã.
Phong trào diệt ác
phá kềm và nổi dậy giành chính quyền làm chủ đã làm chuyển biến tình hình trên
địa bàn Tân Thành. Các cuộc diệt ác phá kềm trong thời kỳ này đều là kết quả và
có sự tham gia đắc lực của các cơ sở nội tuyến. Nhiều cơ sở được cài cắm trong
dân vệ, bảo an, tề xã đã phát huy tác dụng, góp phần trực tiếp vào những thắng
lợi của phong trào Đồng khởi. Qua đó, ta chọn người xây dựng cơ sỏ, phát triển
thực lực cách mạng, phát triển thực lực chính trị, và lực lượng vũ trang địa
phương.
Anh Hứa Văn Chốn
(tức Tám Chốn) là cơ sở cài vào dân vệ đồn Mỹ Xuân, khi tỉnh có chủ trương vũ
trang nổi dậy, anh đã đưa một tiểu đội dân vệ mang súng ra tham gia kháng
chiến. Tám Chốn và nhiều thanh niên ra trong đợt ấy trở thành những du kích gan
dạ đánh địch trên lộ 15 và là những chiến sĩ binh vận tích cực ở cơ sở trên
tuyến lộ 15. Anh Nguyễn Văn Đô, nguyên là cán bộ Ty giao thông liên lạc của
tỉnh trong kháng chiến chống Pháp được điều về phụ trách công tác binh vận trên
tuyến lộ 15 đã xây dựng được nhiều cơ sở cách mạng trong giới tăng ni phật tử
khu vực Đại Tòng Lâm, Thị Vải.
Vấn đề xây dựng lực
lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang ngày càng được quan tâm. Nghị quyết Bộ
chính trị ngày 31 tháng 1 năm 1961 về phương hướng và nhiệm vụ trước mắt của
cách mạng miền Nam đã xác định “Đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị, đồng thời
đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị, tiến công
địch bằng cả hai mặt trận quân sự và chính trị”. Quán triệt Nghị quyết của Bộ
chính trị, Trung ương Cục miền Nam đã xác định trong Nghị quyết tháng 4 năm
1961: “Đẩy mạnh đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang lâu dài, đánh đổ địch
từng bước, giành thắng lợi từng phần, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn”.
Trên địa bàn Tân
Thành, cán bộ chiến sĩ và nhân dân ở nhiều xã, ấp phấn khởi nổi dậy diệt ác phá
kềm giành quyền làm chủ. Tuy nhiên, so với tương quan chung trong toàn tỉnh, cơ
sở cách mạng các xã vùng lộ 15 còn yếu. Thực hiện Nghị quyết của Bộ chính trị,
Trung ương Cục miền Nam, để xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang và đẩy
mạnh đấu tranh chính trị, Huyện ủy Châu Thành thành lập Đội vũ trang lộ 15,
đồng chí Tám thế giới đội trưởng, đồng chí Lê Văn Hân là chính trị viên, đồng
chí Đặng Thị Phượng và đồng chí Déo là đội phó, trang bị các loại súng như:
Carbine, súng trường mút và cả súng ngắn. Nhiệm vụ của đội là vũ trang tuyên
truyền, xây dựng và phát triển cơ sở các xã dọc lộ 15. Ban đêm ra lộ đắp mô,
chặn xe, rải truyền đơn và tuyên truyền chủ trương chính sách của Mặt trận dân
tộc giải phóng miền Nam Việt Nam .
Mồng 2 Tết Tân Sửu
(1961), được lực lượng vũ trang của huyện hỗ trợ, du kích xã Phú Mỹ chặn xe
trên lộ 15 và hướng dẫn hành khách, đồng bào tập trung ở chùa Đại Tòng Lâm tổ
chức vũ trang tuyên truyền. Cán bộ Mặt trận tuyên truyền nội dung về cương lĩnh
Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, ngọn cờ hiệu triệu của Mặt trận
dân tộc giải phóng “nửa xanh, nửa đỏ sao vàng” đã gây ấn tượng mạnh và ảnh
hưởng sâu rộng trong nhân dân và các tầng lớp trí thức. Qua đó vận động nhân
dân đoàn kết xung quanh Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đánh đổ
chế độ Mỹ – Diệm, vận động binh sĩ ngụy quân, ngụy quyền quay súng về với cách
mạng, vận động các gia đình binh sĩ giáo dục con em họ đào ngũ, làm binh
biến lập công với cách mạng. Hàng ngàn tờ truyền đơn được rải ở các khu vực
tuyên truyền cũng như dân trên các đoàn xe về đến Sài Gòn – Biên Hòa – Bà Rịa –
Vũng Tàu. Cuộc vũ trang tuyên truyền thắng lợi, đã gây được tác động mạnh mẽ
trong nhân dân địa phương và các tỉnh khác.
Lực lượng thanh
niên xin gia nhập bộ đội ngày càng đông, Ban Kinh tài không huy động được đủ
ngân sách nuôi quân. Trước tình hình đó, Tỉnh ủy chủ trương cho kinh tài và hậu
cần đi vay vàng, tiền, lúa gạo của dân ở các xã Hắc Dịch, Hòa Long, Long Phứơc
để nuôi bộ đội. Trước yêu cầu cấp bách phát triển lực lượng vũ trang, hưởng ứng
lời kêu gọi của Tỉnh ủy, nhân dân trong xã đã hiến tất cả tài sản quý giá để
trang bị và nuôi quân. Má Bảy ở Hắc Dịch đã bán cả đàn bò, góp cho cách mạng.
Bản thân má và cả 5 người con đều tham gia cách mạng, ba người đã ngã xuống
trong cuộc chiến đấu bảo vệ quê hương.
Đội vũ trang tuyên
truyền lộ 15 cùng du kích xã và cán bộ các xã đẩy mạnh, tuyên truyền diệt ác,
phá kềm, vận động thanh niên nam nữ thoát ly tham gia kháng chiến. Trong năm
1961, Đội đã xây dựng được nhiều cơ sở ở các xã Phước Hòa, Phú Mỹ và Cầu Vạt
(Phước Thái).
Xã Phú Mỹ xây dựng
được một tiểu đội du kích. Tiếp tục đẩy mạnh diệt ác phá kềm, xây dựng cơ sở.
Đồng chí Nguyễn Văn Thâm cùng một tổ du kích xã Phú Mỹ được cơ sở nội tuyến hỗ
trợ diệt tên Khá trưởng đồn Mỹ Xuân, sau đó tên Thành về thay thế cũng bị ta
tiêu diệt. Bọn tề ngụy tại các xã hoang mang lo sợ, hầu hết đều trốn vào bót
ngủ. Ban đêm, ta làm chủ xã, ấp, cán bộ ra vào hoạt động dễ dàng để xây dựng cơ
sở, phát động phong trào và xây dựng lực lượng.
Nhân dịp kỷ niệm 7
năm ngày ký kết Hiệp định Giơnevơ (20/7/1954 – 20/7/1961), lực lượng vũ trang
huyện Châu Thành đã tổ chức một cuộc vũ trang tuyên truyền tại Phước Thái (lộ 15).
Gần trăm chiếc xe trên tuyến Sài Gòn – Bà Rịa – Vũng Tàu đã dừng lại theo sự
hướng dẫn của du kích và bộ đội. Hành khách xuống xe nghe cán bộ tuyên truyền
về cương lĩnh của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam . Đồng bào
rất phấn khởi, tặng nhiều quà cho bộ đội. Ngọn cờ hiệu triệu Mặt trận dân tộc
giải phóng ngày càng ảnh hưởng sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, thúc đẩy
mạnh mẽ phong trào kháng chiến.
Ở xã Hội Bài và
Phước Hòa, đồng chí Lê Văn Lễ (tức Lê Văn Phương, tức Tám Phèn) cùng một số cán
bộ tăng cường của huyện đã móc nối, xây dựng lại cơ sở cách mạng, củng cố lại
ban cán sự và thành lập đội du kích xã. Cuối năm 1961, du kích Phước Hòa diệt 4
tên mật báo chỉ điểm và tên Sáu Trắng trưởng đồn Long Sơn ở ấp Hội Phước. Sau
đó, qua cơ sở nội tuyến của ta là đồn phó dân vệ Hội Bài, du kích và quần chúng
tiếp tục tiếp công bức rút đồn Hội Bài, thu toàn bộ vũ khí, giải phóng hoàn
toàn ấp Hội Phước, Hội Thạnh và Hội Bài (xã Hội Bài), được quần chúng nhiệt
tình hưởng ứng, ta giải phóng luôn hai ấp Phước Tấn và Phước Long (Phước Hòa),
tạo được thế đứng chân vững chắc cho cách mạng từ rừng Sác, Nam, Bắc lộ 15 lên
rừng Giồng đến khu căn cứ Châu Pha, Hắc Dịch.
Hắc Dịch trở thành
xã đầu tiên trong tỉnh hoàn toàn được giải phóng, căn cứ kháng chiến được củng
cố. Hắc Dịch có vị trí chiến lược quan trọng trên chiến trường Bà Rịa – Long
Khánh. Đây là khu rừng già nằm giữa quốc lộ 15 và tỉnh lộ 2, bao bọc Núi Dinh –
Thị Vải, trải rộng từ giáp thị xã Bà Rịa lên đến Phú Mỹ, từ phía Bắc lộ 15 kéo
dài lên vùng cao su lộ 2, là cầu nối giữa chiến khu rừng Sác với chiến khu Đ.
Nhân dân Hắc Dịch với một lòng chí cốt với cách mạng. Đội du kích xã sớm được
hình thành với 11 tay súng và lực lượng dân quân các ấp gồm 74 người. Dân quân
du kích Hắc Dịch ngày đêm xây dựng xã chiến đấu, tham gia xây dựng và bảo vệ
khu căn cứ kháng chiến của tỉnh.
Sau đợt tham dự hội
nghị ở Củ Chi về, đồng chí Phan Tiến Ngọc Bí thư Tỉnh ủy Bà Rịa đã báo cáo kinh
nghiệm đào tạo và những hiệu quả của địa đạo Củ Chi cho Tỉnh ủy Bà Rịa. Hội
nghị Tỉnh ủy giữa năm 1961 đã quyết định xây dựng Hắc Dịch thành căn cứ địa
kháng chiến và chỉ đạo các cơ quan đơn vị tổ chức đào địa đạo để bảo tồn lực
lượng và đánh địch khi chúng càn vào.
Thực hiện sự chỉ
đạo của Tỉnh ủy Bà Rịa, vào mùa khô năm 1961, các cơ quan lãnh đạo kháng chiến
của tỉnh Bà Rịa đã tiến hành đào địa đạo tại khu căn cứ Hắc Dịch. Đặc trưng của
các địa đạo như sau: Hệ thống địa đạo Hắc Dịch gồm 4 tuyến địa đạo của các cơ
quan: Tỉnh ủy, Tỉnh đội, Mặt trận giải phóng tỉnh, và Ban Tuyên huấn tỉnh Bà
Rịa. Tất cả các tuyến địa đạo và giao thông hào đều ẩn dưới tán rừng già, trên
các sườn đồi thoai thoải và cách các suối nước không xa. Trên các đường xương
sống địa đạo là các khu lán trại được dựng bằng cây, tre, nứa, lợp bằng lá
trung quân hoặc bằng ni lông tăng bạt, dùng làm nơi làm việc, họp hội, sinh
hoạt, ăn ở của các cơ quan đơn vị. Đất lấy từ địa đạo lên được sử dụng làm nền
nhà, lán trại. Dọc bên hông các tuyến địa đạo là các tuyến giao thông hào và
các ụ chiến đấu; cách giao thông hào từ 100 đến 200 mét là các bãi tử địa, để
ngăn chặn địa càn quét từ bên ngoài. Dọc theo các tuyến giao thông hào là các ụ
chiến đấu, có lối đi thông xuống địa đạo khi cần thiết.
Địa đạo Tỉnh ủy có
độ sâu cách mặt đất từ 4 mét đến 5 mét, đường xương sống địa đạo chiều rộng
(ngang) từ 0,7 mét đến 0,8 mét; Khi đường xương sống địa đạo xuống sâu hoặc đổi
hướng thì kích thước có thay đổi lớn hơn hoặc hẹp lại khoảng 0,4 mét đến 0,6
mét. Chiều cao của đường xương sống địa đạo trung bình 1,8 mét, có nơi thấp 0,5
hoặc 1 mét, có nhiều cửa ngăn và lỗ thông hơi. Đặc biệt trong lòng địa đạo còn
bố trí các trạm y tế, kho vũ khí dược, kho dự trữ lương thực nước uống, kho lưu
trữ tài liệu, quân trang quân dụng. Trung bình mỗi kho rộng từ 5 đến 6 mét
vuông.
Địa đạo Tỉnh đội Bà
Rịa có chiều dài khoảng 200 mét, đường xương sống địa đạo có chiều sâu, chiều
rộng và chiều cao, ngách ẩn nấp, hầm trú ẩn, kho, trạm và lỗ thông hơi giống
như địa đạo Tỉnh ủy, nhưng có thêm các kho chứa vũ khí, hầm và trạm y tế. Chất
liệu được gia cố thêm bằng xi măng cốt thép kiên cố hơn. Vũ khí đạn dược chi
viện từ miền Bắc vào bằng đường biển qua bến Lộc An, bến sông Thị Vải và các
nơi khác đưa về trong những năm 1963-1965 đã được tập kết trong các kho chứa
này. Hầu hết vũ khí đạn dược được cất giữ ở khu căn cứ Hắc Dịch đã phục vụ và
phân phát kịp thời cho chiến trường Bình Giã, và các đơn vị quân chủ lực, quân
địa phương chiến đấu tại các tỉnh miền Đông Nam Bộ.
Địa đạo Ban Tuyên
huấn Tỉnh ủy Bà Rịa được xây dựng ở Đồi Ươi (Gia Cốp). Địa đạo có chiều dài khoảng
300 mét, đường xương sống có độ sâu cách mặt đất 4 đến 5 mét, chiều rộng trung
bình 0,8 mét, chiều cao trung bình 1,80 mét. Trong đường xương sống địa đạo
cũng có các hầm trú ẩn, rộng từ 4 đến 6 mét vuông. Ngoài ra còn có các hầm cất
giữ tiền bạc, tài liệu hoạt động bí mật, vũ khí đạn dược, dụng cụ y tế, lương
thực, thuốc men… Địa đạo Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Bà Rịa nằm ở khu vực có hai
loại cây ươi gần một ngọn suối cụt.
Địa đạo Mặt trận
giải phóng miền Nam Việt Nam tỉnh Bà Rịa nằm tại khu vực ấp 1 khu nông trường
Sông Xoài ngày nay, gần con suối chảy về suối Châu Pha, có độ dài khoảng 300
mét. Đường xương sống, chiều sâu, chiều rộng, chiều cao, hầm trú ẩn, lỗ thông
hơi, ngách ẩn nấp đều giống như địa đạo của Tỉnh ủy Bà Rịa.
Khu vực Tỉnh ủy Bà
Rịa, địa đạo Ban tuyên huấn Tỉnh ủy, địa đạo Tỉnh đội và địa đạo Mặt trận giải
phóng tỉnh, được xây dựng thành và hoạt động từ năm 1961 đến 1965. sau năm
1965, hết các cơ quan lãnh đạo kháng chiến của tỉnh Bà Rịa đều chuyển về khu
vực Sông Ray (Xuân Sơn thuộc huyện Châu Đức). Hệ thống địa đạo được chuyển giao
lại cho Hậu cần miền Đông Nam Bộ để tiếp nhận vũ khí chi viện bằng đường biển
vào Miền Đông Nam Bộ.
Cùng với việc xây
dựng căn cứ địa, Tỉnh ủy chú trọng củng cố các ban chuyên môn và cơ quan giao
liên, hậu cần của tỉnh. Các cơ quan tham mưu của Tỉnh ủy cũng đóng trên địa bàn
xã Hắc Dịch. Trường quân sự của tỉnh được thành lập từ đầu năm 1961, tại Căn cứ
Hắc Dịch, làm nhiệm vụ huấn luyện và đào tạo cán bộ xã đội và tiểu đội, đồng
thời chọn tổ chức thu nhận tân binh huấn luyện cấp tốc rồi bổ sung về các đơn
vị tỉnh và huyện. Năm 1961, trường mở được 2 lớp cán bộ xã và tiểu đội (mỗi lớp
từ 40 đến 60 đồng chí) và một lớp huấn luyện trên 60 tân binh. Trường mở thêm
lớp quân báo nhân dân và mở lớp trinh sát đặc công, bổ sung quân số và lực
lượng được đào tạo bài bản cho lực lượng vũ trang các cấp, từ xã đến huyện và
tỉnh. Là nơi thành lập Trường quân sự đầu tiên ở miền Đông Nam Bộ, quân khu
giao cho tỉnh Bà Rịa thu nhận và huấn luyện tân binh cho nhiều địa phương.
Cũng trong năm
1961, Trường Đảng được xây dựng tại Gia Cốp, liên tục mở các lớp huấn luyện,
đào tạo hàng loạt cán bộ, đáp ứng yêu cầu trước bước phát triển của cách mạng,
diệt ác phá kềm, giành chính quyền làm chủ của nhân dân, mở rộng vùng giải
phóng. Trường Đảng còn mở các lớp chuyên đề phục vụ cho hoạt động trong các thị
xã, thị trấn, cho đồng bào dân tộc Châu Ro, cho các đồng chí bị địch bắt ở tù
ra, cho các đồng chí cán bộ không đi tập kết ra Bắc, ở lại miền Nam bám trụ
hoạt động và sống sót qua các chiến dịch khủng bố trắng của địch.
Ban Quân – Dân y đã
xây dựng trạm xá tại Hắc Dịch, nhờ đồng bào dân tộc Châu Ro chỉ dẫn cho các
loại cây thuốc trên rừng, tổ chức sản xuất được một số thuốc tây và thuốc nam.
Tại căn cứ Hắc Dịch, Ban Quân – Dân y đã mở lớp đào tạo 40 y tá để bổ sung cho
các huyện và các đơn vị.
Ban Thông tin và
Ban giao liên của Tỉnh ủy đều đặt Văn phòng tại Hắc Dịch. Bộ phận giao liên căn
cứ đã được tăng cường, hình thành Hệ thống giao liên từ tỉnh lên khu và xuống
huyện thành một hành lang như sau:
· Văn
phòng Ban có mật danh là trạm Hòa Bình, đóng tại rừng Bằng Lăng ấp Lò xã Hắc
Dịch, có trách nhiệm tiếp phát công văn thư từ, báo cáo cho Tỉnh ủy, tỉnh đội,
các ban Ngành, tổ chức đoàn thể và Đội hỏa tốc làm nhiệm vụ chạy thư hỏa tốc
của cấp ủy xuống các huyện hoặc trạm.
· Trạm
Dân Chủ là trạm đầu mối đóng tại xóm Thiều xã Hắc Dịch, có nhiệm vụ vận chuyển
thư tín, đưa đón khách đi và về văn phòng Ban, đi Ban cán sự cao su, huyện Long
Thành, huyện Cần Giờ và trạm Độc Lập.
· Trạm
Thống Nhất đóng tại Bàu Lươn, khu vực Đồng Don, Núi Nhạn có nhiệm vụ vận chuyển
thư tín, khách đi và về huyện Long Đất, Châu Thành, Đức Thạnh, Thị xã Bà Rịa,
Thị xã Vũng Tàu, và Trạm Dân Chủ.
Nhiều thanh niên
người dân tộc Châu Ro của Hắc Dịch đã tham gia lực lượng giao liên của tỉnh và
của huyện. Vốn thông thạo địa bàn, các đoàn công tác các đơn vị bộ đội có giao
liên người Châu Ro dẫn đường là anh em yên tâm, cắt rừng không cần bản đồ, đi
không bao giờ lạc. Đồng chí Dương Văn Lực người Châu Ro ở xã Hắc Dịch, là một
trong số cán bộ được Quân ủy Trung ương chọn vào đoàn cán bộ đầu tiên của Đoàn
559, soi đường mòn vượt Trường Sơn đưa cán bộ, vũ khí về giải phóng quê hương.
Đồng chí là một cán bộ gương mẫu, trung kiên trong suốt thời kỳ kháng chiến
chống Mỹ, luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được đồng đội tin yêu và nhân dân
mến phục./.
Bài 24
Phát huy thế 2 chân, 3 mũi, chống gom dân lập ấp chiến
lược
______________________________
Đầu năm 1962, trên
địa bàn Tân Thành địch xây dựng nhiều đồn, bót dọc lộ 15 (lộ 51) nhằm khống chế
lực lượng cách mạng ở khu vực rừng núi Châu Pha-Hắc Dịch, Thị Vải và bảo vệ con
đường huyết mạch lộ 15 từ Vũng Tàu về Biên Hòa – Sài Gòn. Đồng thời tăng cường
lực lượng hỗ trợ cho kế hoạch gom dân lập “ấp chiến lược” của Mỹ – Ngụy như đồn
pháo binh Nguyễn Văn Bé, đồn Cây Điệp và yếu khu Phước Biên. Các cụm pháo 155
ly ở Phú Mỹ và Ông Trịnh thường xuyên bắn phá vào khu căn cứ Hắc Dịch.
Đi đôi với đánh phá
bên ngoài, địch còn tăng cường bắt lính, đưa lực lượng biệt động quân vào bảo
an về hỗ trợ cho bọn tề ngụy ở các xã ráo riết thực hiện kế hoạch gom dân lập
ấp chiến lược, cưỡng bách nhân dân phải dời nhà vào các khu tập trung như: ấp
chiến lược Phú Mỹ, Hội Bài, Phước Hòa, Chu Hải, Kim Hải, Hòa Long, Long Phước,
Sông Cầu, Bình Ba, Xuân Sơn, Bình Giã, án ngữ dọc lộ 15. phong trào cách mạng
của huyện và ở các xã lại gặp nhiều khó khăn mới.
Ngày 20 tháng 3 năm
1962, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tỉnh Bà Rịa ra lời kêu gọi
và nêu rõ lập trường của mình: “Nếu đế quốc Mỹ ngoan cố điên cuồng vũ trang quy
mô xâm lược miền Nam Việt Nam để thực hiện mưu đồ nô dịch nhân dân ta, thì nhân
dân ta quyết đoàn kết một lòng, hy sinh chiến đấu đến cùng để giữ vững nền độc
lập, giành quyền sống, tự do dân chủ của mình.
Theo tinh thần nghị
quyết tháng 4 năm 1962 của Trung ương Cục, Tỉnh ủy chỉ đạo đẩy mạnh đấu tranh
chính trị và vũ trang lâu dài, đánh lùi địch từng bước, giành thắng lợi từng
phần, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Tỉnh ủy xác định 3 công tác trọng yếu
là kiên quyết phá ấp chiến lược gom dân của địch, ra sức mở rộng căn cứ địa
toàn diện vững mạnh, khẩn trương xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, trong
đó, nhiệm vụ phá ấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng nhất.
Do vị trí chiến
lược hết sức quan trọng của địa bàn lộ 15, địch tập trung lực lượng, mở rộng
các căn cứ quân sự, đóng nhiều đồn, bót, tăng cường bộ máy kềm kẹp. Từ giữa năm
1962, địch tiến hành thực hiện kế hoạch gom dân lập ấp chiến lược dọc lộ 15.
đối với các ấp có đồng bào theo đạo Thiên chúa, địch tuyên truyền xuyên tạc,
gây nghi ngờ giữa giáo dân với cách mạng. Bên cạnh đó, Mỹ – Ngụy còn tổ chức
các lực lượng phản động và trang bị vũ khí như lực lượng thanh niên chiến đấu,
biến ấp chiến lược thành “pháo đài chống cộng”.
Xã Phú Mỹ và Phước
Hòa là một trong những trọng điểm để địch tiến hành gom dân lập ấp chiến
lược. Chúng hô hào “Dân phải vào ấp chiến lược, ngoài chặn Việt cộng về quậy
phá để được yên ổn làm ăn”. Địch tiến hành gom dân lập ấp chiến lược ở xã Phú
Mỹ trước. Chúng huy động các lực lượng ở xã và có cả lực lượng của tiểu khu,
chi khu tham gia, dùng mọi thủ đoạn để khủng bố và đàn áp nhân dân. Bắt đồng
bào ta không phân biệt già trẻ gái trai phải tham gia đào hào, đắp lũy, làm
hàng rào kẽm nhiều lớp quanh ấp chiến lược. Xung quanh ấp chiến lược địch còn
xây dựng 3 tua lớn, mỗi tua lớn có 3 tua nhỏ nằm rải rác các tuyến và khu
vực quan trọng, thường xuyên có lính hoặc bảo an và lực lượng thanh niên chiến
đấu, thanh niên hiệp sĩ “áo đen” canh gác, kiểm soát gắt gao sự đi lại của nhân
dân nhằm bảo vệ trung tâm xã cũng như cắt đứt mối liên hệ nhân dân với cách
mạng.
Để tiến hành rào ấp
chiến lược, địch bắt mỗi gia đình phải đào hào, đắp đê và cắm chông dưới hào
(đào sâu 3 mét, rộng 3 mét, đáy hào 0,5 mét, đất đào phải đắp thành bờ đê sát
hàng miệng hào). Chúng phân cho những gia đình có con em theo cách mạng, hoặc
gia đình có người đi tập kết ở miền Bắc phải đào 10 mét, những gia đình khác
đào từ 3 đến 5 mét. Bắt dân phải đào đúng thời gian đúng quy định, gia đình nào
đào chậm địch tiếp tục giao thêm hoặc gây khó dễ, bắt bớ đánh đập. Chúng còn
bắt nhân dân trong xã mỗi người phải nộp 50 cây cừ cao 3 mét để làm hàng rào và
100 cây chông để cắm dưới hào ấp chiến lược. Những gia đình già yếu không có
người vào rừng chặt cây cừ và chông được phải đóng tiền cho trưởng ấp. Hàng
ngày chúng điều hàng trăm dân công, nhất là các gia đình cách mạng phải ra hiện
trường để đào hào, đắp đê, lô cốt và rào ấp chiến lược. Sau hơn 3 tháng địch
ráo riết tiến hành dồn dân huy động dân công, tăng cường lực lượng bảo an, dân
vệ thúc ép dân dỡ nhà dời vào ấp chiến lược, đến đầu năm 1963, hệ thông ấp
chiến lược xã Phú Mỹ đã cơ bản hoàn thành với hệ thống rất kiên cố gồm 2 lớp
hàng rào kẽm gai, một bờ đê, và hào sâu dưới cắm chông tre bao xung quanh xã.
Địch chỉ chừa lại 3 cổng ra vào ( 2 cổng lớn mở ra hướng lộ 15 và 1 cổng mở cho
dân đi làm rừng) vì ở Phú Mỹ, lúc đó có đến 95% nhân dân sinh sống nhờ nguồn
tài nguyên của rừng. Do vậy để tách rời và cắt đứt các mối liên hệ với cách
mạng, chúng quy định buổi sáng 6 giờ mới mở cổng, buổi chiều đúng 18 giờ đóng
cổng và địch kiểm soát rất gắt gao mỗi khi dân ra vào cổng, đắc biệt là những
người dân đi làm rừng, chúng kiểm soát chặt chẽ, lục xét các túi, giỏ xách đựng
lượng thực, dụng cụ và hạch sách đủ điều.
Cùng với việc gom
dân lập ấp chiến lược, chúng còn tiến hành lập sổ bìa đen những gia đình có
thân nhân tham gia cách mạng và theo dõi sát những người tham gia kháng chiến 9
năm chống Pháp. Trên cơ sở đó chúng phân loại từng gia đình ra làm 3 loại, thể
hiện từng màu khác biệt để dễ bề kiểm soát. Chúng còn phân công mỗi tên bảo an
theo dõi 3 gia đình cách mạng. Những gia đình theo quốc gia chấm màu vàng, gia
đình có nhiều người đi tập kết miền Bắc màu đỏ, còn những gia đình có người
tham gia cách mạng tại địa phương như cán bộ, du kích, bộ đội… chấm màu xanh.
Địch còn điều về Phú Mỹ, Phước Hòa các tên tay sai ác ôn khét tiếng để đàn áp
phong trào cách mạng, tăng cường bọn bảo an và củng cố tề xã, ấp, đồng thời
trang bị vũ khí cho lực lượng dân vệ, thanh niên chiến đấu ngày đêm còn giữ và
kiểm soát gắt gao cổng ra vào ấp chiến lược. Đặc biệt là những gia đình cách
mạng, địch chấm màu xanh và ghi tên theo dõi thường xuyên, để cô lập cách mạng,
chúng chủ trương dỡ nhà và dồn những gia đình “bảng đen” tập trung ở khu vực
xung quanh đồn Phú Mỹ, Phước Hòa để dễ bề kiểm soát. Nham hiểm hơn, chúng còn
đưa bọn biệt chính (cán bộ xây dựng nông thôn) về ăn ở trong nhà dân, thực hiện
thủ đoạn nham hiểm, lừa mị dân, gây ly gián, nghi ngờ trong nhân dân và cơ sở
cách mạng.
Trước sự đàn áp,
bức bách và đánh phá phong trào, cơ sở cách mạng của địch, khi chúng tiến hành
cơ bản xong ấp chiến lược ở Phú Mỹ, Ban cán sự xã Phú Mỹ đã quyết định chia xã
làm ba khu vực (A-B-C) để phân công cán bộ theo dõi tiếp tục củng cố cơ sở và
xây dựng lực lượng quần chúng. Khu A thuộc khu vực đội 7, khu B thuộc ấp Mỹ
Thạnh, có số dân đông và khu C thuộc ấp Mỹ Xuân, dân cư sống tập trung và
là khu trung tâm của xã, khu dân cư nằm sát đồn địch, nên chúng kềm kẹp rất gắt
gao, khu C hầu hết là dân địa phương, nên có tinh thần chí cốt với cách mạng.
Xã đội trưởng
Nguyễn Văn Thâm thường xuyên bám sát phong trào, vận động nhân dân đấu tranh
với địch bằng nhiều hình thức như viết đơn lên xã và quận đòi được tự do đi làm
ăn, đòi được bung ra khỏi ấp chiến lược để sản xuất, đòi đi sớm về muộn. Mặc dù
địch kiểm sát rất chặt chẽ nhưng cơ sở ta đã rải nhiều truyền đơn ngay
trước cổng đồn, ngay tại trụ sở Hội đồng xã của địch và rải khắp các đường hẻm
trong xã, nội dung lên án bọn tay sai ác ôn và kêu gọi binh sĩ bỏ ngũ về với
cách mạng. Địch tức tối lùng sục khắp xóm ấp, lục soát các gia đình chúng tình
nghi nhưng cũng không phát hiện được dấu vết gì.
Lợi dụng lúc bọn
tề, ngụy hoang mang dao động, nhân dân nhiều lần tổ chức từng nhóm 5 từ 7 người
kéo nhau lên xã vào đồn đưa đơn đấu tranh: Đòi đi sớm về trễ, cho xe trâu được
đi sớm, đem theo gạo nấu cơm trưa. Tiêu biểu phong trào đấu tranh là bà Phan
Thị Năm, cùng các chị em như Trần Thị Dĩnh, Lê Thị Nghiệm, Lê Thị Khiêm… Địch
bắt bớ những gia đình cách mạng và những chị em đưa đơn đấu tranh tra tấn đánh
đập dã man, nhưng trước sự đấu tranh có lý lẽ của ta nên buộc địch phải trả tự
do cho bà con và xoa dịu hơn không kiểm soát gắt gao khi ra vào cổng ấp chiến
lược, cũng từ đây có cơ sở và cán bộ ta có điều kiện đột nhập và liên lạc
thường xuyên với cách mạng.
Cơ sở và phong trào
cách mạng các đoàn thể quần chúng ở xã Phú Mỹ được củng cố và phát triển mạnh,
Chi bộ cũng được củng cố và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Đồng chí Lê
Văn Hân được rút về huyện. Chi bộ Phú Mỹ gồm có đồng chí Đặng Thị Phượng Bí thư
và các đồng chí: Nguyễn Văn Giao, Nguyễn Văn Thâm, Huỳnh Văn Sen, Hứa Văn Chốn,
Ba Tài… để lãnh đạo bám sát cơ sở, mỗi đảng viên được phân công từ khu vực và
các đoàn thể quần chúng. Lực lượng du kích xã phát triển mạnh trên 10 đồng chí,
do đồng chí Nguyễn Văn Thâm làm xã đội trưởng, Huỳnh Văn Sen xã đội phó, đồng
chí Lê Văn Hồng (bí danh Mạnh Bạo) phụ trách trưởng ban thông tin. Đội du kích
xã được trang bị đầy đủ vũ khí, bám sát cơ sở hỗ trợ cho phong trào đấu tranh
chính trị và binh vận. Đặc biệt đội du kích đã tổ chức tốt việc diệt các tên
chỉ điểm, ác ôn khét tiếng như Nguyễn Văn Đù, Nguyễn Văn Bé, Hồ Văn Bông, tên
Khá là những tên tay sai vô cùng nham hiểm, đã từng khai báo chỉ điểm bắt bớ
cán bộ và cơ sở ta cho địch.
Từ tháng 10 năm
1962, địch tiến hành đồng loạt gom dân lập ấp chiến lược tại các ấp còn lại như
ấp Ông Trịnh, Phước Lộc, Láng Cát, Chu Hải mà trọng điểm là ấp chiến lược ở
Phước Hòa. Chúng điều lực lượng hùng hậu của tỉnh Phước Tuy về gồm bảo an, công
dân vụ, thanh niên chiến đấu, phụ nữ cộng hòa dùng tàu thuyền càn quét ruồng bố
các ấp ở khu vực rừng Sác, trên rừng và dọc hai bên lộ 15, bọn bảo an lùng sục
thúc ép từng nhà dân phải dời vào ấp chiến lược. Với lực lượng đông, địch còn
dùng súng uy hiếp bắt dân dỡ nhà. Được sự lãnh đạo của cán bộ cơ sở, nhân dân
đấu tranh trì hoãn đến giằng co với địch, nhưng chúng càng đàn áp uy hiếp dỡ và
đốt nhà dân. Chúng dỡ cả 6 ngôi miếu, đình, trong các ấp. Trước tình hình đó,
buộc dân phải dỡ nhà vào ấp chiến lược.
Địch đã gom toàn bộ
dân xã Hội Bài tập trung vào một ấp chiến lược Phước Hòa, khi đó, ấp chiến lược
Phước Hòa gồm: ấp Phước Hòa là trung tâm (nay là xã Hội Bài), ấp Phước Tấn, ấp
Hội Phước, ấp Hội Hòa và ấp Hội Bài với trên 3 ngàn hộ, gần 20 ngàn dân. Mỗi ấp
đều có trưởng và phó ấp, lực lượng dân vệ và thanh niên chiến đấu được trang bị
đầy đủ vũ khí.
Nhân dân Tân Thành
tích cực đấu tranh chống làm ấp chiến lược từ đầu bằng cách trì hoãn, vừa làm
vừa phá, ban ngày địch bắt dân làm, đêm ta tổ chức lực lượng và nhân dân phá
san lấp hào, cắt kẽm, bẻ cọc sắt… Cuộc đấu tranh chống địch gom dân lập ấp
chiến lược diễn ra giằng co, có lúc quyết liệt trong suốt những tháng cuối năm
1962 và đầu năm 1963 như ở Phú Mỹ và Phước Hòa, ấp chiến lược bị ta phá từng
mảng, địch bắt dân làm lại ta tiếp tục phá, bị phá nhiều lần, nhưng do tương
quan lực lượng nên ta chưa phá dứt điểm được.
Phong trào cách
mạng ở huyện và các xã hết sức khó khăn. Một số cán bộ, du kích phải dạt ra
ngoài căn cứ, nhiều cơ sở mất liên lạc, quần chúng có phần hoang mang. Năm 1962
do hạn hán kéo dài, lúa mùa có nguy cơ mất trắng. Trước tình hình đó, Huyện ủy
chủ trương tiếp tục bám cơ sở bên trong ấp chiến lược móc nối và củng cố lại cơ
sở phong trào, và tập trung lực lượng cùng với nhân dân các xã đào mương, tát
nước tưới cho các cánh đồng bị hạn, cứu được hàng trăm mẫu lúa. Qua đó, các
tầng lớp nhân dân và cán bộ chiến sĩ càng thêm tin tưởng và nhiệt tình ủng hộ
cách mạng, tham gia kháng chiến./.
Bài 25
Chống phá ấp chiến lược, góp phần vào thắng lợi của
chiến dịch Bình Giã
____________________________________________
Năm 1963 trên địa
bàn Tân Thành, địch đã cơ bản hình thành hệ thống ấp chiến lược, trên dọc lộ 15
chúng đã hình thành các ấp chiến lược từ Phú Mỹ (hai ấp) Ông Trịnh, Phước Lộc,
Phước Hòa (năm ấp), Láng Cát và Chu Hải.
Ngay từ đầu năm
1963, Tỉnh ủy đã xác định nhiệm vụ trọng tâm là đẩy mạnh ba mũi giáp công chống
phá ấp chiến lược. Phương châm đấu tranh là kết hợp ba mũi giáp công, lấy mũi
vũ trang làm đòn xeo, diệt ác, phá kềm, phá phỏng, phá rã và tiến tới phá banh
ấp chiến lược của địch, coi ấp chiến lược là chiến trường tiến công địch. Tỉnh
ủy cử đồng chí Lê Thành Ba làm trưởng ban chống phá ấp chiến lược của tỉnh.
Trước tình hình khó
khăn, dân hầu hết bị gom vào ấp chiến lược đã gây nhiều khó khăn bất lợi cho cách
mạng. Cán bộ không trực tiếp lãnh đạo được phong trào, tình hình lương thực lại
thiếu thốn. Vì địch kiểm soát gắt gao, dân khó tiếp tế lương thực, thuốc men
cho cách mạng. Mỗi lần ta đột ấp là tổn thất hy sinh. Việc chống phá ấp chiến
lược lại diễn ra dai dẳng và hết sức quyết liệt. Lực lượng vũ trang C.45 của
tỉnh và C.20 của huyện cơ động đánh địch, hỗ trợ cho các xã làm đòn xeo cùng
lực lượng binh vận và quần chúng nhân dân phá ấp chiến lược. Huyện ủy chỉ đạo
các xã củng cố và xây dựng lực lượng du kích lộ và du kích mật, để có đủ điều
kiện đánh bại các âm mưu thủ đoạn và sự đánh phá bình định của địch.
Từ tháng 6 năm
1963, thực hiện chỉ đạo của Tỉnh ủy Bà Rịa, Huyện ủy tiếp tục phát động các xã
đồng loạt tập trung lực lượng phá ấp chiến lược. Rút kinh nghiệm các lần phá
trước, lần này ta chủ trương từ phá rã, phá banh đến phá dứt điểm. Tuy tình
hình khó khăn nhưng cán bộ, chiến sĩ và nhân dân Tân Thành vẫn vững vàng, kiên
trì cách mạng. Nhân dân trong ấp chiến lược mỗi khi đi làm rừng vẫn tìm mọi cách
qua mặt địch, đem lương thực thực phẩm, thuốc men và vật dụng sinh hoạt cần
thiết tiếp tế cho cán bộ du kích. Đặc biệt đồng bào dân tộc Châu Ro ở Châu Pha
và khu căn cứ Hắc Dịch, dù bị địch càn quét đàn áp, bắn phá nương rẫy, bà con
vẫn kiên quyết không “ăn ở hai lòng”, không chịu để địch gom vào ấp chiến lược.
Xã Hắc Dịch khi đó có các ấp Thống Nhất, Mụ Bân và Châu Pha. Sau nhiều trận càn
quét, gom dân của địch, một số gia đình từ ấp Châu Pha phải chuyển về khu vực
nhà máy nước Bà Rịa, một số gia đình cùng đồng bào các ấp Thống Nhất, Mụ Bân
dời sâu vào rừng, không để địch gom dân, lập ấp.
Địch đánh đến đâu,
dân Hắc Dịch dời sâu vào rừng tới đó, sát cánh cùng bộ đội chống càn, xây dựng
căn cứ, tham gia đào địa đạo, công sự chiến đấu và các kho cất giữ vũ khí đạn
dược. Nhân dân Hắc Dịch sẵn sàng nhường cả ruộng rẫy, trâu bò cho bộ đội sản
xuất, nuôi quân.
Trong thời gian các
cơ quan của tỉnh Bà Rịa đóng trên địa bàn Hắc Dịch (1958-1964), khu căn cứ Châu
Pha-Hắc Dịch đã hình thành trung tâm chỉ đạo phong trào cách mạng, trung tâm
đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quân nhân chính đảng trong toàn tỉnh. Tỉnh ủy,
trường Đảng tỉnh, Phụ nữ tỉnh, Đoàn thanh niên tỉnh và khu Đoàn miền Đông đã mở
nhiều lớp huấn luyện tại đây; nhân dân Hắc Dịch phục vụ, bảo vệ an toàn cho hàng
trăm cuộc họp, lớp học, đồng thời đưa đón hàng ngàn lượt cán bộ từ các nơi khác
đi về an toàn.
Công tác binh vận
là một trong những mũi tiến công quan trọng, được Huyện ủy chỉ đạo chặt chẽ,
các xã đều tổ chức được lực lượng tham gia công tác binh vận khá tốt. Với tinh
thần mưu trí và sáng tạo, lực lượng công tác binh vận các xã Phú Mỹ, Phước Hòa
đã vận động nhân dân, gia đình binh lính, sĩ quan ngụy, đến các tăng ni phật tử
ở các chùa… đóng góp nhiều lương thực, thực phẩm cho cách mạng. Thông qua bọn
lính và sĩ quan ngụy moi được nhiều nguồn tin tức quan trọng phục vụ kịp thời
cho cách mạng. Kể cả vận động bọn dân vệ làm cơ sở cho ta diệt bọn tay sai tề,
ngụy, ác ôn, cũng như vận động lực lượng dân vệ đem theo súng ra căn cứ tham
gia kháng chiến, làm một tuyến phối hợp với du kích, bộ đội làm binh biến tiến
công đồn địch giành thắng lợi. Cơ sở binh vận xã Phú Mỹ đã tổ chức được một
tiểu đội dân vệ làm binh biến cho ta tiến công đồn Phú Mỹ. Trung sĩ Thạnh
Phương, Phó đồn Phú Mỹ, cơ sở nội tuyến đưa vợ con ra trước, sau đó làm nội ứng
cho ta tiến công đồn.
Nhóm hạt nhân tích
cực trong công tác binh vận ven lộ 15 có các đồng chí Nguyễn Văn Đô (tức Hai
Đô), các chị Sáu Búp, Năm Mai, Năm Vân, Mười Biếc ở Mỹ Xuân. Được Chi bộ và cán
bộ binh vận giác ngộ, nhiều tăng ni, phật tử đã nhiệt tình ủng hộ cách mạng như
cô Ba và thầy Bửu Thạnh (chùa Giữa) là cơ sở binh vận nắm tình hình địch, cô
Sáu (chùa Chân), cô Duyên (chùa Thị Vải), cô Ba Diệu Anh (chùa Phú Mỹ) là cơ sở
giao liên, tiếp tế lương thực, cô Hai (chùa Đại Tòng Lâm) là cơ sở nuôi giấu
cán bộ và tiếp tế lương thưc thực phẩm cho cách mạng nhiều năm trong suốt thời
kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Các cơ sở trong giới tăng ni Phật tử thường
lấy đạo lý của người tu hành mà khuyên răn binh sĩ ngụy, nên làm điều lành,
tránh điều ác, không tiếp tay cho ngoại bang làm hại cách mạng, hại nhân dân.
Chế độ độc tài gia
đình trị Ngô Đình Diệm bị lật đổ (1/11/1963). Ngụy quân Ngụy quyền tay sai lâm
vào khủng hoảng trầm trọng. Để phù hợp tình hình trên chiến trường. Tháng 12 năm
1963, Trung ương Cục quyết định tách tỉnh Bà Biên thành hai tỉnh Bà Rịa và Biên
Hòa. Đồng chí Nguyễn Văn Chí là Bí thư Tỉnh ủy Bà Rịa, đồng chí Nguyễn Việt Hoa
(tức Mười Thà) là Tỉnh đội trưởng, Tỉnh ủy ra nghị quyết phát động đợt ra quân
đồng loạt phá ấp chiến lược trên phạm vi tòan tỉnh Bà Rịa.
Thực hiện chỉ đạo
của Tỉnh ủy, Huyện ủy chỉ đạo lực lượng vũ trang huyện và du kích các xã kết
hợp với lực lượng chính trị và binh vận, sự hỗ trợ của lực lượng bộ đội tỉnh
cũng cố lực lượng, cùng với quần chúng tiến công và nổi dậy bức rút đồn bót,
phá rã đến phá banh ấp chiến lược.
Ở xã Phước Hòa Chi
bộ sớm được củng cố, đồng chí Võ Văn Vàng làm Bí thư Chi bộ, đã xây dựng được
cơ sở nội tuyến trong lực lượng thanh niên chiến đấu, và làm nội tuyến đưa du
kích và bộ đội huyện tiến công ấp chiến lược, giải tán ban hội tề xã Phước Hòa,
Chi bộ và cơ sở binh vận lãnh đạo quần chúng phá rã từng mảng ấp chiến
lược.
Trước sự tăng cường
lực lượng bảo an và bọn bình định nông thôn về xã Phú Mỹ, địch ngày đêm lùng
sục, đánh phá cơ sở cách mạng, gây cho ta nhiều khó khăn và tổn thất. Hầu hết
cán bộ và du kích xã bị đánh dạt ra ngoài ấp chiến lược, mỗi lần ta đột ấp đều
bị hy sinh và tổn thất nặng nề.
Chi bộ xã Phú Mỹ
chỉ còn lại một số đồng chí như: Đồng chí Ba Tài, Nguyễn Văn Thâm, Hứa Văn
Chốn, Huỳnh Văn Sen. Trước tình hình đó Huyện ủy chỉ đạo tập trung củng cố lại
Chi bộ, với quyết tâm bám dân, móc nối củng cố lại các cơ sở và phát triển lực
lượng du kích để có đủ lực lượng đối phó với những âm mưu thủ đoạn và đánh phá
của địch. Qua công tác binh vận, nhân dân đã hết lòng ủng hộ cách mạng, nhiều
gia đình hết lòng che chở đào hầm nuôi dấu cán bộ ngay trong nhà, tiêu biểu như
gia đình ông Ba Là đã nuôi đến ba cán bộ cách mạng. Các ấp trong xã đều có cơ
sở để cán bộ bám trụ hoạt động. Cơ sở binh vận ở Phú Mỹ hoạt động mạnh, Ban
chấp hành hội phụ nữ xã do đồng chí Phạm Thị Năm làm Hội trưởng hoạt động tích
cực, đã vận động được nhiều dân vệ và bảo an đem vũ khí giao nộp cho cách mạng,
tham gia kháng chiến như Nguyễn Văn Khánh là bảo an đóng ở đồn Phú Mỹ đem ra
căn cứ một súng Carbin và 12 trái lựu đạn. Ngoài ra cơ sở binh vận còn vận động
nhân dân đóng góp, ủng hộ tiền, lương thực và thuốc men cho cách mạng. Tiêu
biểu là đồng chí Năm Cân, đại diện cho anh em trong Hội nông dân ở xã đi thu
thuế, vận động hội viên và nhân dân đóng góp ủng hộ tiền rồi chuyển cho Ban
kinh tài. Ở Phú Mỹ và Mỹ Xuân có những cơ sở đóng xe trâu, xe bò và xe be đều
tích cực ủng hộ và chuyển lương thực vào căn cứ cho cách mạng.
Sau chuyến tiếp
nhận vũ khí vào bến Lộc An đêm 3 tháng 10 năm 1963, Tỉnh ủy Bà Rịa được giao
nhiệm vụ tiếp tục chuẩn bị tiếp nhận ở bến Lộc An, đồng thời triển khai kế
hoạch tiếp nhận hàng từ bến Thạnh Phú (Bến Tre) vào cửa Cần Giờ, qua sông Đồng
Tranh về Hắc Dịch. Căn cứ Hắc Dịch được xây dựng thành Tổng kho tiếp nhận vũ
khí từ Thạnh Phú chuyển về qua tuyến sông Đồng Tranh – Thị Vải. Từ tổng kho Hắc
Dịch, vũ khí, quân trang, quân y được vận chuyển đến các đơn vị chủ lực và các
tỉnh miền Đông Nam
bộ, Khu 6, góp phần đẩy mạnh vũ trang, hỗ trợ đắc lực cho phong trào phá ấp
chiến lược trên toàn miền.
Trong những tháng
cuối năm 1963 đầu năm 1964, cùng với bộ đội huyện và tỉnh, du kích xã Phú Mỹ và
Phước Hòa liên tục phục kích bắn tỉa, đến tiến công đồn làm tiêu hao sinh lực
địch và hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy phá rã đến phá banh các ấp chiến lược.
Như tháng 10 năm 1963, du kích Phú Mỹ đặt mìn và phục kích tiêu diệt một xe Jep
địch đi trên lộ 15 ở cây số 77. sau đó một tháng, được sự hỗ trợ của nhân dân,
du kích xã tiếp tục phục kích và diệt một xe GMC, bắt sống 11 tên địch, thu
toàn bộ vũ khí.
Đến cuối năm 1963,
hầu hết các ấp chiến lược ở Nam và Bắc lộ 15 thuộc xã Phước Hòa, Phú Mỹ, đều bị
phá rã đến phá banh. Những tên tay sai ác ôn số bị diệt số còn lại hoang mang
không dám đàn áp mạnh như trước, bảo an co lại trong đồn bót. Nhân dân phấn
khởi, càng tích cực ủng hộ cách mạng hơn, phong trào cách mạng và cơ sở phát
triển mạnh, nam nữ thanh niên hăng hái tham gia di kích, bộ đội.
Tháng 3 năm 1964,
Trung ương Cục miền Nam
họp hội nghị Trung ương lần thứ 3. Hội nghị đã nhân định và đánh giá tình hình
trong hai năm và xác định nhiệm vụ của năm 1964 là: “Giữ vững, xây dựng, mở
rộng các khu căn cứ rừng núi và đồng bằng theo kịp sự phát triển của cách mạng,
nhất là trên các địa bàn chiến lược, đẩy mạnh phá ấp chiến lược của địch để tạo
ra vùng giải phóng rộng lớn, liên hoàn tiếp giáp với các vùng căn cứ.
Thực hiện sự chỉ
đạo của Trung ương Cục, Tỉnh ủy tiếp tục chỉ đạo các huyện và lực lượng vũ
trang nhanh chóng củng cố tổ chức, phát triển cơ sở quần chúng, kết hợp ba mũi
vũ trang, chính trị, binh vận liên tục tiến công bức rút đồn bót địch. Kết hợp
chặt chẽ cùng với chủ lực tác chiến, phát triển phong trào du kích, chiến tranh
phá rã, phá banh ấp chiến lược của địch trên quy mô toàn tỉnh, tạo điều kiện mở
rộng hành lang tiếp nhận vũ khí, giải phóng và mở rộng quyền làm chủ của nhân
dân./.
Bài 26
Chiến dịch Bình Giã
_____________________
Được sự hỗ trợ của
lực lượng như bộ đội chủ lực, bộ đội tỉnh và bộ đội huyện, các xã thực hiện chỉ
đạo của Huyện ủy đã mở đợt cao điểm liên tục tiến công địch. Trên truyến lộ
giao thông huyết mạch của địch từ Sài Gòn – Biên Hòa đến Bà Rịa và quân cảng
Vũng Tàu. Lộ 15 thường xuyên bị lực lượng của huyện và du kích các xã Phú Mỹ,
Phước Hòa phục kích, tập kích, đắp mô, đến đánh sập cầu, đến tập kích đánh địch
lưu thông trên trục lộ huyết mạch này.
Tháng 4 năm 1964,
thiếu tá Nguyễn Văn Phước đưa Liên đội biệt kích gồm 9 đại đội về làm nhiệm vụ
giữ an ninh quốc lộ 15. Phước bố trí 2 đại đội ở xã Phước Hòa, 2 trung đội ở 2
ấp Hội Bài và Ông Trịnh, 6 đại đội rải ra đóng ở Quán Chim, Sân bay, Phú Mỹ,
Láng Cát, Cầu Váng (Chu Hải), Kim Hải. Khu ủy miền Đông Nam bộ đã cử cán bộ
binh vận về phối hợp với Tỉnh ủy Bà Rịa tranh thủ được thiếu tá Phước, tạo điều
kiện thuận lợi cho hành lang tiếp nhận vũ khí. Ngay trong tháng 4 năm 1964,
Phước đã liên hệ và giao cho anh Võ Văn Lọt, cơ sở của lữ đoàn quân báo 316 của
ta 50 trái lựu đạn M.26 và 2000 viên đạn tại Hội Bài.
Tháng 11 năm 1964,
thiếu tá Phước được lệnh đưa hai đại đội giải tỏa cho đồn Bờ Đập. Phước đưa
quân xuống đóng tại Phước Lợi, viết thư nhờ đồng bào chuyển vào căn cứ để giữ
thế hòa hoãn với cách mạng. Cán bộ binh vận huyện đã đưa Phước vào căn cứ Minh
Đạm. Sau ba lần gặp gỡ, hai bên làm bản cam kết: Phước không được hành quân vào
vùng cách mạng, không bắt quân địch, không làm khó dễ cho đồng bào, không nổ
súng vào cách mạng, để cho lực lượng cách mạng tự do hoạt động. Phía cách mạng
cam kết không bắn chim sẻ, không đặt mìn, không đào đường trên tuyến Phước phụ
trách. Trong lần gặp đầu tiên, Phước đã giao cho anh Đức Thiều (Đặng Thành Đức,
cán bộ binh vận huyện Long Đất) 10 khẩu súng (1 thompson, 1 colt 12, 8
carbine), 60 trái đạn cối và một số đạn nhọn đáng kể tại ấp Hội trường, xã
Phước Long Hội.
Sau khi cam kết,
hai bên thường gặp nhau thông báo tình hình. Phước đóng lại một tháng rồi rút
về Phước Hòa. Lực lượng binh vận cử cán bộ vào ở cùng đơn vị để chỉ dẫn chính
sách của cách mạng cho Phước và binh sĩ thông suốt. Cán bộ binh vận còn đưa 2
cán bộ trinh sát của tỉnh đến giới thiệu và đề nghị Phước đưa vô căn cứ Yếu khu
Phước Biên (Sân bay Phú Mỹ). Phước đưa sắc phục biệt động cho các anh cải
trang, dùng xe gắn máy đưa hai anh vào yếu khu điều nghiên. Anh Chín Khang, cán
bộ binh vận khu, anh Đức Thiều, cán bộ binh vận huyện và chị Minh Tuyết, ủy
viên Ban Binh vận huyện giữ mối liên hệ với Phước. Nhờ tranh thủ và giữ được
thế hòa hoãn với thiếu tá Phước, ta hoàn toàn làm chủ Lộ 15 và vận chuyển an
toàn hàng trăm tấn vũ khí từ Rừng Sác vượt lộ về Hắc Dịch. Mỗi khi các lực
lượng của huyện, của tỉnh và của miền cần hoạt động ở khu vực nào, chị Minh
Tuyết báo cho bọn lính của Phước là ta tự do hoạt động.
Sách lược hòa hoãn
với thiếu tá Phước đã vô hiệu hóa được cả một Liên đội Biệt động quân (9 đại
đội, hơn 800 tên), tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ lực lượng cách mạng trong
khu vực. Trong thời gian hòa hoãn với thiếu tá Phước, du kích Phước Hòa đêm nào
cũng ra lộ đắp mô, cắm cờ, gây ách tắc giao thông, thường xuyên đột ấp, vũ
trang tuyên truyền, phá lỏng ấp chiến lược Phước Lộc, Láng Cát. Trên tuyến lộ
145 chỉ còn lại ấp chiến lược Chu Hải. Ta giáo dục hầu hết Thanh niên chiến đấu
ở ấp Hội Bài và ấp Ông Trịnh thuộc xã Phước Hòa, đưa trên 100 thanh niên ra
Rừng Sác, Rừng Giồng, nhiều người đã tham gia kháng chiến, trong đó có các liệt
sĩ Hồ Văn Nam, Phan Văn Chuông. Sau này, trong suốt thời gian chiến dịch Bình
Giã nổ ra, thiếu tá Phước đã giữ đúng cam kết, cho cả tiểu đoàn án binh bất
động, lấy lý do an ninh bất ổn để từ chối lệnh hành quân ứng cứu.
Tháng 6 năm 1964,
để hỗ trợ cho hoạt động mở mảng, mở vùng ở tỉnh Bà Rịa, Quân khu 7 đã điều tiểu
đoàn chủ lực D.800 về hoạt động trên hướng lộ 15. Được cơ sở nội tuyến của ta
cung cấp nguồn tin, có đoàn xe quân sự của địch vận chuyển lương thực và vũ khí
đạn dược, quân dụng. Đoàn xe gồm 25 chiếc các loại, trong đó cả một đại đội bảo
an đi theo để bảo vệ. Du kích xã Phú Mỹ kết hợp với lực lượng trinh sát của
huyện và tiểu đoàn 800 phục kích ở lộ 15, ngay khu vực chùa Đại Tòng Lâm chờ
đoàn xe đi ngang ta tấn công địch. Trận đánh diễn biến đúng như dự kiến, qua 30
phút chiến đấu quyết liệt, ta đã phá hủy và làm hư hỏng nặng 25 xe quân sự loại
GMC, tiêu diệt trên 100 tên địch, phá hủy 3 khẩu pháo 105 ly và tịch thu nhiều
phương tiện chiến tranh, vũ khí đạn dược của địch.
Thế làm chủ của ta
ở các xã dọc lộ 15 được mở rộng. Các xã đều phát triển được đảng viên mật, du
kích và tự vệ mật đến hai tiểu đội. Xã Phước Hòa xây dựng được một đội du kích
đường sông, tham gia nắm tình hình địch và diệt ác, làm nội ứng cho ta tiến
công địch. Cơ sở Phạm Văn Cát là thanh niên chiến đấu xã Phước Hòa đã đưa bộ
đội huyện và du kích xã tiến công ấp chiến lược, diệt một trung đội biệt chính,
diệt tên Tám Giò an ninh mật báo rất nguy hiểm và giải tán Ban hội tề xã Phước
Hòa, thu 4 tiểu liên Mã Lai, 3 súng ru lô, đồng thời ta hỗ trợ cùng cơ sở và
quần chúng nổi dậy phá banh ấp chiến lược Phước Hòa.
Xã Phú Mỹ, tuy địch
đóng đồn ngay trong khu dân cư và ấp chiến lược, lực lượng bảo an thường xuyên
kiểm tra lục soát rất gắt gao, nhất là bọn cảnh sát và bình định chúng thực
hiện nhiều âm mưu thủ đoạn để đánh phá cơ sở và phong trào cách mạng. Nhưng
được sự hỗ trợ của quần chúng và cơ sở nội tuyến, ta đã kết hợp tốt ba mũi giáp
công, đột nhập ấp chiến lược diệt tên Bê cảnh sát ác ôn, giải tán thanh niên
chiến đấu, tịch thu hết súng đạn, đưa được một số thanh niên ra căn cứ tham gia
kháng chiến và hỗ trợ quần chúng phá rã từng mảnh và làm vô hiệu hóa ấp chiến
lược, tạo được nhiều lối ra vào ấp chiến lược Phú Mỹ.
Cuối năm 1964 hệ
thống các ấp chiến lược của địch ở Nam , Bắc lộ 15 hầu hết ta đã phá
lỏng, phá rã đến phá banh, ta làm chủ từng đoạn lộ 15. Thực lực cách mạng ở các
xã và trên địa bàn Tân Thành phát triển mạnh. Các tuyến hành lang liên huyện
đến tỉnh được thông suốt, tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng quân chủ lực
Miền về hoạt động, nhất là tạo được đường vận chuyển vũ khí từ bờ sông Thị Vải
đến khu căn cứ Hắc Dịch.
Tại các khu căn cứ
Hắc Dịch, Châu Pha đồng bào dân tộc tích cực chuẩn bị lương thực thực phẩm và
địa bàn cho bộ đội về tác chiến. Dân quân du kích Hắc Dịch chia ca canh giác
bảo vệ các hướng vào khu căn cứ, bảo vệ kho tàng vũ khí và tiếp nhận lương thực
thực phẩm các nơi chuyển về tổng kho ở Hắc Dịch.
Từ tháng 10 năm
1963, sau khi mở bến Lộc An, tiếp nhận thắng lợi 20 tấn vũ khí vận tải bằng
đường biển đầu tiên vào miền Đông Nam Bộ. Bộ chỉ huy Miền đã quyết định mở
tuyến Đồng Tranh – Hắc Dịch chuyển tiếp vũ khí từ Thạnh Phú (Bến Tre) về Hắc
Dịch được chọn làm căn cứ của Ban chỉ huy Đoàn K10, với lực lượng vận tải lên
đến một trung đoàn. Hắc Dịch là tổng kho tiếp nhận vũ khí lớn của miền Đông Nam
Bộ, có lúc dự trữ đến 800 tấn vũ khí, quân nhu, quân y. Đó là nguồn vũ khí chủ
yếu để xây dựng lực lượng Miền lớn mạnh, làm nên những chiến thắng lẫy lừng ở
Bình Giã, Ba Gia, Phước Long, Sông Bé. Đây cũng là một trong những nguyên nhân
được Bộ chỉ huy Miền chọn chiến trường Bình Giã (Bà Rịa) làm hướng chủ yếu cho
chiến dịch lớn đầu tiên của chủ lực miền Đông Nam bộ.
Thực hiện chỉ đạo
của Miền, đơn vị 445B do đồng chí Lê Thành Công (Sáu Thịnh) là chỉ huy trưởng (445
là mật danh của đơn vị bộ đội tập trung của tỉnh Bà Rịa lúc đó) được thành lập
ở căn cứ Hắc Dịch, quân số từ 65-70 đồng chí. Nhiệm vụ của 445B là tiếp chuyển
hàng (vũ khí, đạn dược) do Đoàn 340B chuyển từ sông Đồng Tranh về Thị Vải. Đơn
vị 445B có nhiệm vụ chuyển hàng do đơn vị 340B giao tại bờ sông Thị Vải, vận
tải bộ về Hắc Dịch. Đơn vị 445B tổ chức tiếp nhận hàng tại 3 bến: Bến Bà Phóng,
bến Giữa và bến Ông Trịnh (thuộc địa bàn xã Phú Mỹ).
Để công việc vận
tải được an toàn, không bị địch phục kích, khi tiếp nhận và chuyển vượt qua lộ
15, Đoàn 445B phải thường xuyên tổ chức trinh sát, và kết hợp với lực lượng du
kích xã Phú Mỹ theo dõi địch ở yếu khu Phước Biên, địch ở đồn Phú Mỹ để tổ chức
đánh lạc hướng và ngăn chặn địch mỗi khi ta vận chuyển vũ khí.
Để gấp rút chuẩn bị
hậu cần cho hoạt động quân sự trên chiến trường Miền Đông, đặc biệt là nhu cầu
vũ khí đạn dược, Bộ chỉ huy quân sự Miền rút phần lớn lực lượng Đoàn 1500 về
Hắc Dịch, tăng cường cán bộ, bổ sung quân số cho hành lang vận tải này, thành lập
một Trung đoàn tiếp vận mang phiên hiệu Đoàn K10. Căn cứ chính của Đoàn K10
đóng tại Hắc Dịch. Nhờ tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm ngặt, giữ được bí mật
tuyệt đối đường hành lang, điểm giao nhận nên tuyến hành lang này hoạt động rất
hiệu quả, phục vụ đắc lực cho việc phát triển lực lượng vũ trang và đấu tranh
vũ trang trong thời kỳ này. Tỉnh đội đã bàn giao khu căn cứ Hắc Dịch với cả hệ
thống địa đạo cho Đoàn K10, phục vụ việc tổ chức tiếp nhận và bảo quản vũ khí.
Hắc Dịch trở thành
căn cứ địa không chỉ của huyện, của tỉnh mà của toàn miền, có vị trí quan trọng
trong việc tập kết và dự trữ vũ khí, trung chuyển cho lực lượng vũ trang miền,
đặc biệt là thời kỳ trực tiếp phục vụ chiến dịch Bình Giã. Chiến trường Bình
Giã đã sử dụng đến 500 tấn vũ khí trong đó có 400 tấn được cấp phát từ tổng kho
K10 (Hắc Dịch). Khu căn cứ Hắc Dịch được coi là “Thánh địa” của cuộc kháng
chiến trên địa bàn miền Đông Nam bộ, nơi đây đã đưa đón nhiều các cơ quan tham
mưu, chính trị, hậu cần Miền về chuẩn bị chiến dịch Bình Giã, các đơn vị về
tiếp nhận vũ khí, cũng như nơi đây tiếp nhận lương thực, thực phẩm các nơi
trong tỉnh Bà Rịa tập kết về để phục vụ cho chiến trường Bình Giã. Ở khu căn cứ
Hắc Dịch còn có Bệnh xá dân y của tỉnh, được quân khu đầu tư, nâng cấp với 180
giường bệnh để phục vụ chiến dịch, là nơi đóng quân của trung đoàn chủ lực Q
762, để chuẩn bị ra quân trong chiến dịch.
Mỗi người dân Hắc
Dịch thật sự là một chiến sĩ cách mạng, chiến sĩ giao liên dẫn đường cho các
đơn vị ra vào căn cứ, đưa các cánh quân đi trinh sát địa bàn, trận địa. Hắc
Dịch không chỉ là khu căn cứ của tỉnh, của huyện của các giai đoạn trong kháng
chiến, mà nơi đây còn là căn cứ của chiến dịch Bình Giã, góp phần quyết định
vào thắng lợi chung của vùng miền Đông Nam bộ.
Để phối hợp hỗ trợ
và ủng hộ cho chiến dịch Bình Giã, nhân dân Phú Mỹ, Phước Hòa và Hội Bài được
Ban binh vận vận động đã tích cực đóng góp tiền, lương thực, sức người của cho
chiến dịch thắng lợi, tiêu biểu các gia đình ở Phú Mỹ như: Gia đình ông Đỗ Văn
On, Lê Văn Bảy, Nguyễn Văn Chứng, gia đình ông Nguyễn Văn Diễn. Trong thời gian
diễn ra chiến dịch, lực lượng du kích Phú Mỹ và Phước Hòa thường xuyên cùng với
nhân dân đêm đêm ra lộ đắp mô, cắm cờ làm ách tắc giao thông, ngăn chặn đường
tiếp viện quân địch cho chiến trường Bình Giã. Lực lượng giao liên tỉnh và
huyện mà số đông là người dân tộc Châu Ro là đội ngũ dẫn đường tin cậy cho các
đơn vị về tiếp nhận vũ khí và chiếm lĩnh trận địa. Một trong những đóng góp
thầm lặng mà vô cùng quan trọng của quân và dân Hắc Dịch vào trận thắng Bình
Giã là giữ bí mật tuyệt đối cho chiến dịch.
Kể từ ngày Hắc Dịch
trở thành căn cứ của Đoàn K10, Đoàn 84 Hậu cần miền cho đến khi chiến dịch nổ
ra, cán bộ quân nhu tỉnh, cán bộ Đoàn hậu cần 84, Đoàn hậu cần khu E và hậu cần
Miền về tổ chức căn cứ tiếp nhận vũ khí và phục vụ chiến dịch, có lúc đông trên
trăm người. Hàng trăm tấn vũ khí, hàng ngàn dân công, bộ đội về vận tải và tiếp
nhận, vậy mà kẻ địch không phát hiện được một dấu hiệu gì về một chiến dịch lớn
sắp nổ ra ở khu vực này.
Quân và dân Tân Thành
đã góp phần cùng bộ đội chủ lực Miền và quân dân trong tỉnh góp phần giành
thắng lợi to lớn: Loại khỏi vòng chiến đấu 1.755 tên địch, trong đó có 60 tên
cố vấn Mỹ, 40 sĩ quan Ngụy, bắt sống 293 tên, phá hủy 45 xe quân sự, bắn cháy
và làm bị thương 55 máy bay, thu 611 súng các loại, 10 máy truyền tin và nhiều
quân trang quân dụng. Lần đầu tiên trên chiến trường miền Nam ta đã tiêu
diệt được cấp tiểu đoàn địch, kể cả đơn vị sừng sỏ thuộc lực lượng tổng trù bị
của giặc. Đánh giá ý nghĩa của thắng lợi, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban
chấp hành Trung ương Đảng đã nhận định: “Trong quá trình chiến tranh giải phóng
miền Nam đã diễn ra những bứơc nhảy vọt như thế, với trận Ấp Bắc năm 1963 địch
thấy khó thắng ta, sau chiến dịch Bình Giã địch thấy thua ta”./.
Bài 27
Trực tiếp đương đầu với quân viễn chinh Mỹ và chư hầu
Úc
_____________________________
Chiến thắng Bình
Giã (tháng12/1964) là một đòn đánh mạnh vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, làm
phá sản hoàn toàn chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, đẩy chế độ tay sai ở Sài
Gòn đứng trước nguy cơ sụp đổ. Nhưng với bản chất xâm lược, đế quốc Mỹ vẫn
không từ bỏ tham vọng biến miền Nam
thành thuộc địa kiểu mới. Ngày 17 tháng 7 năm 1965, tổng thống Mỹ quyết định
đưa 44 tiểu đoàn quân Mỹ vào miền Nam chính thức triển khai chiến lược “Chiến
tranh cục bộ” ở Việt Nam.
Mục tiêu của chiến
lược “Chiến tranh cục bộ” là triển khai quân viễn chinh Mỹ, quân chư hầu tiến
hành cuộc chiến tranh trên bộ ở Nam Việt Nam, dùng “phản công” tiêu diệt quân
chủ lực ta, làm cho quân chủ lực cách mạng không tập trung được, mà phải phân
tán, chỉ đánh du kích; Kết hợp chiến tranh phá hoại bằng không quân ở miền Bắc,
buộc ta phải thương lượng theo điều kiện của Mỹ.
Ngày 5 tháng 5 năm
1965, lữ đoàn dù 173 của Mỹ đổ bộ vào Vũng Tàu, triển khai lực lượng trên chiến
trường Biên Hòa, Bà Rịa, mở đầu cho cuộc chiến tranh cục bộ. Các đơn vị Hoàng
gia Úc và pháo binh Tân Tây Lan tiếp tục đổ bộ vào Biên Hòa, chuẩn bị triển
khai lực lượng xuống địa bàn Bà Rịa. Cùng với quân và dân toàn tỉnh, quân và dân
Tân Thành đã trực tiếp đương đầu với quân xâm lược Mỹ và quân chư hầu Úc.
Chiến thắng Bình
Giã (1964-1965) đã làm phá sản về cơ bản chiến lược chiến tranh đặc biệt của đế
quốc Mỹ và tay sai. Phát huy thắng lợi của chiến dịch Bình Giã, đầu năm 1965,
Tỉnh ủy chỉ đạo đẩy mạnh phong trào ba mũi giáp công đánh địch, phá rã hầu hết
các ấp chiến lược và bộ máy kềm kẹp của địch.
Thực hiện chỉ đạo
của Huyện ủy, Chi bộ chỉ đạo các cơ sở và binh vận phối hợp tác chiến. Ở Phú
Mỹ, tổ tự vệ mật do đồng chí Hứa Văn Chốn chỉ huy (tổ gồm 8 đồng chí: Nhi, Nhớ,
Cẩm, Lài, Giang…) kết hợp với du kích tiến công diệt và làm tan rã một trung
đội nghĩa quân của địch, thu 10 súng các loại và hàng chục lựu đạn, phá rã bộ
máy tề ngụy ở xã và các ấp.
Bị tấn công liên
tục, bọn bảo an ở đồn Phước Hòa co lại, tề ngụy hoang mang tối không dám ở nhà,
phải vào đồn ngủ, ấp chiến lược xã Phước Hòa không còn là nơi an toàn của địch
nữa. Về phía ta, sau mỗi trận đánh, quần chúng rất phấn khởi bung ra sản xuất,
nhất là các cơ sở được nối lại liên lạc để hoạt động. Qua công tác vận động
quần chúng, có 9 thanh niên hăng hái thoát ly, được bổ sung vào du kích xã và
lực lượng huyện.
Từ đầu năm 1965,
được sự hỗ trợ của bộ đội vũ trang C20 và trinh sát cùng với lực lượng du kích
Phước Hòa liên tục hoạt động bắn phá, đánh cống, đắp mô và chặn xe thu thuế
trên đường 15 kể cả ban ngày. Các ấp chiến lược được coi là kiên cố của địch
trên lộ 15 như Phước Lộc, Láng Cát, Kim Hải đều bị phá rã. Du kích Phước Hòa
bắt các tên trưởng ấp cảnh cáo trước quần chúng nhân dân, sau đó ta giáo dục và
khoan hồng cho về nhà, những tên này đã hứa nghỉ việc không tham gia tề ngụy
nữa. Ngay sau đó ta phá đường dây và trụ dây thép bưu điện trên lộ 15 đoạn từ
ấp Lam Sơn đến ấp Phước Lộc dài trên 3 km. Qua phong trào diệt ác phá kềm, ta
đã xây dựng ở Phước Hòa được 7 cơ sở người di cư công giáo phục vụ đắc lực cho
cách mạng như: liên lạc, rải truyền đơn trong các ấp và quanh đồn bót địch.
Tính đến tháng 8
năm 1965, thế lực và phong trào cách mạng ta phát triển mạnh, bọn địch ở các
đồn bót co lại, tề ngụy hoang mang rệu rã. Được cơ sở nội tuyến ta nắm chắc
tình hình bố phòng của địch, Chi bộ Phước Hòa trực tiếp cùng lực lượng du kích
đột nhập vào trung tâm xã Phước Hòa, chúng chống cự yếu ớt và hốt hoảng bỏ chạy
tán loạn, ta hoàn toàn làm chủ tình hình. Sau đó ta phát động quần chúng phá
banh hệ thống ấp chiến lược qui mô của xã Phước Hòa. Hầu hết các ấp chiến lược
trên địa bàn Tân Thành đều bị phá rã đến phá banh, tạo điều kiện cho phong trào
cách mạng ngày càng phát triển. Lực lượng vũ trang từ tỉnh đến huyện và du kích
các xã đều có bước trưởng thành. Ngày 19 tháng 5 năm 1965, tiểu đoàn 445 bộ đội
tỉnh Bà Rịa được thành lập. Bộ đội địa phương huyện và du kích xã cũng được
tăng cường cả quân số và vũ khí.
Giữa năm 1965,
trung ương Cục và Quân ủy miền quyết định điều Đoàn 10 đặc công Rừng Sác về
chiến trường Bà Rịa và thành lập Đặc khu Rừng Sác. Quân và dân Phú Mỹ, Phước
Hòa đã hỗ trợ cho Đoàn 10 tổ chức thu mua lương thực thực phẩm, cung cấp nước
ngọt và xây dựng căn cứ tại Rừng Sác.
Bằng phương tiện
chiến tranh hiện đại, đế quốc Mỹ quyết tâm hủy diệt khu căn cứ Hắc Dịch và đàn
áp các lực lượng cách mạng trên địa bàn Tân Thành. Được quân Mỹ án ngữ bên
ngoài, ngụy quân, ngụy quyền ra sức bình định, lập ấp tân sinh (tức ấp chiến
lược được đổi tên) nhằm tìm và đánh phá cơ sở cách mạng. Dọc trục lộ 15, địch
xây dựng thêm đồn pháo binh ở ấp Ông Trịnh (xã Phước Hòa) và xây dựng thêm yếu
khu Phước Biên (khu vực ấp Phước Lập, xã Phú Mỹ). Chúng tăng cường lực lượng
bảo an ở các đồn như Phú Mỹ, Phước Hòa và củng cố tăng quân ở tua cầu Rạch
Váng. Ngoài ra chúng còn đưa các tên tay sai ác ôn khét tiếng về bố trí củng cố
tề xã đến các ấp, nhằm kiểm soát chặt chẽ các hoạt động, tổ chức cơ sở cách
mạng.
Tháng 1 năm 1966,
quân Mỹ bắt đầu mở đợt phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất. Mục tiêu của
chúng là tiêu diệt lực lượng cách mạng, đẩy lực lượng cách mạng ra khỏi những
vùng giải phóng, hỗ trợ đắc lực cho việc bình định lập ấp tân sinh trong xã,
ấp, mở rộng vùng kiểm soát, đánh vào cơ sở cách mạng để cắt nguồn hậu cần tại
chổ của ta.
Tháng 3 năm 1966,
xã Phước Hòa nhận thêm ấp Kim Hải (trước đây thuộc thị xã Bà Rịa). Lực
lượng và cơ sở xã cũng được củng cố và phát triển mạnh, nhằm đáp ứng với cuộc
chiến đấu ác liệt hơn. Lực lượng du kích các xã cũng phát triển từ một tiểu đội
đến hai tiểu đội, du kích mật ở các xã lộ 15 phát triển mạnh. Đồng chí
Đặng Văn Phó, huyện ủy viên được phân công về xã Phước Hòa trực tiếp làm Bí thư
Chi bộ thay đồng chí Võ Văn Vàng. Đồng chí Ba Khởi là xã đội trưởng, đồng chí
Nguyễn Văn Sơn (tức Ba Sơn) là xã đội phó, đồng chí Nguyễn Văn Lâm là chính trị
viên. Lực lượng và Chi bộ Phước Hòa vừa được củng cố xong, đóng căn cứ ở núi Đá
Rạng, giữa hai dãy núi Dinh và Tóc Tiên – Thị Vải, thì tháng 4 năm 1966, lữ
đoàn dù 173 của Mỹ và lực lượng Úc càn vào căn cứ, sau đó địch cho pháo bắn cấp
tập vào hai sườn núi, ta chiến đấu quyết liệt, sau đó phải rút lui để bảo toàn
lực lượng. Trong trận này ta bị mất tích đồng chí Võ Văn Tư trên đường đi liên
lạc về huyện. Sau trận càn lực lượng của xã không còn lương thực phải nhịn đói
ăn chuối rừng 6 ngày.
Ngày 29 tháng 5 năm
1966, chiến đấu đoàn số 1 lính Hoàng gia Úc gồm 880 tên và một đại đội pháo Tân
Tây Lan (20 khẩu pháo, 16,7 ly) do tên thiếu tướng Henderson chỉ huy kéo quân
về đóng căn cứ tại Núi Đất (Hòa Long). Ngoài lính Mỹ và Úc lực lượng địch trên
địa bàn tỉnh Phước Tuy (Bà Rịa) lúc đó còn có nhiều sư đoàn, lữ đoàn, chiến
đoàn Mỹ, sư đoàn 18 chủ lực Ngụy thường xuyên hành quân càn quét trên chiến
trường Bà Rịa. Quân và dân Bà Rịa nói chung, quân dân Tân Thành một lần nữa thể
hiện ý chí kiên cường và quyết tâm đánh giặc ngoại xâm.
Mỹ - ngụy biết rõ
Hắc Dịch là khu căn cứ cách mạng quan trọng của ta, căn cứ của cơ quan đầu não
của tỉnh Bà Rịa và Tân Thành có vị trí chiến lược của con đường huyết mạch lộ
15, cũng như Phú Mỹ, là cửa ngõ vào khu căn cứ Hắc Dịch, nên địch tăng cường
lực lượng, đóng các đồn bót dầy đặc, kềm kẹp và đánh phá liên tục Phú Mỹ-Hắc
Dịch với ý đồ hủy diệt vùng căn cứ, cưỡng bách đồng bào dân tộc Châu Ro ở Hắc
Dịch ra lộ 15. Nhân dân Hắc Dịch đã cùng bộ đội chiến đấu quyết liệt để bảo vệ
căn cứ, hầu hết đồng bào dân tộc Châu Ro đã cùng lực lượng rút vào rừng sâu,
kiên quyết không sống ở vùng địch kiểm soát.
Ngày 30 tháng 6 năm
1966, quân Úc huy động lực lượng một tiểu đoàn mở trận càn quét vào vùng giải
phóng của ta ở Châu Pha. Lực lượng huyện bố trí tại căn cứ Đồng Nghệ diệt và
làm bị thương hàng chục tên giặc, thu vũ khí. Địch phải sử dụng 4 máy bay lên
thẳng chuyển hướng về Núi Đất. Quân Mỹ, Úc phối hợp với ngụy quân ngụy quyền mở
hàng loạt cuộc hành quân, chà đi xát lại , đánh vào vùng giải phóng, càn quét,
đưa dân ở các vùng giải phóng gom vào các ấp chiến lược. Liên tiếp nhiều ngày
đêm liền Mỹ ngụy cho máy bay quần đảo, phát loa buộc nhân dân phải rời làng, di
tản đi nơi khác. Huyện ủy dời về căn cứ núi Dinh củng cố lực lượng, chuẩn bị
đánh càn. Du kích các xã hầu như không bám được dân phải rút ra ngoài củng cố
các lõm căn cứ. Tâm tư tình cảm của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ nhất là bà con
cơ sở có phần băn khoăn lo lắng trước sự càn quét đánh phá ngày càng tăng của
địch nhất là bọn lính chư hầu Úc.
Trước tình hình
đánh phá ác liệt của Mỹ-Ngụy, ngày 17 tháng 7 năm 1966, từ thủ đô Hà Nội, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi lịch sử, khẳng định ý chí quyết tâm giải
phóng miền Nam của dân tộc ta: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20
năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể
bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam
quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Lời kêu gọi của Bác là lời
động viên cán bộ, đảng viên và nhân dân cả nước nói chung, quân dân Tân Thành
nói riêng kiên quyết bám trụ địa bàn chiến đấu.
Cuối năm 1966, địch
đánh phá ác liệt, cán bộ, du kích đến Chi bộ hầu hết phải dạt ra ngoài, về căn
cứ để củng cố lực lượng. Việc liên lạc giữa cán bộ bên trong và bên ngoài hết
sức khó khăn. Căn cứ xã Phước Hòa phải dời từ rừng Giồng, về rừng Sác để có
điều kiện bám dân, củng cố cơ sở và tìm nguồn lương thực. Được cơ sở nội tuyến
hỗ trợ, đội du kích xã mai phục địch ở Gò Hào gần bến Hội Bài, cách ấp chiến
lược 30 mét, bắt sống hai tên tề ấp đưa về căn cứ. Ta giáo dục chủ trương,
chính sách của Đảng, giáo dục ý thức dân tộc, cảnh cáo những hành động phản
nước hại dân của chúng rồi giao về cho gia đình quản lý. Cả hai tên đều hứa sẽ
lãng công, trốn việc, không làm tay sai cho giặc nữa.
Thời gian ở căn cứ
rừng Sác, do địch kiểm soát quá gắt gao, dân không tiếp tế được, hàng tháng
trời, cán bộ và du kích phải ăn ốc, cua, đọt chà là thay cơm, khó khăn nhất là
thiếu nước ngọt. Lợi dụng thời gian đội giang thuyền của địch kiểm tra không
thường xuyen, đồng bào làm nghề chài lưới có điều kiện tiếp tế cho lực lượng
của xã. Trong khi đó, các đơn vị của huyện ở rừng Giồng lại khó khăn, do địch
đánh phá ác liệt, phải dời căn cứ liên tục, do đó lực lượng rất khó khăn. Xã
Phước Hoà phải tổ chức cơ sở trong số dân đi chài lưới để qua xã Long Sơn mua
khoai mì, gạo, thuốc men, vượt qua đội giang thuyền của địch để tiếp tế lương
thực cho lực lượng của huyện đang thiếu đói trầm trọng.
Từ tháng 9 năm
1966, Mỹ đưa trung đoàn kỵ binh số 11 (E11) với hàng trăm xe tăng, thiết giáp
về đóng căn cứ tại Suối Râm cùng với quân chư hầu Úc, chúng thường xuyên càn
quét vào vùng giải phóng huyện Châu Đức, nhất là đánh sâu vào vùng căn cứ Châu
Pha, Hắc Dịch. Kể cả trận địa pháo ở Cây Cầy cán bộ chiến sĩ và nhân dân thường
gọi là “dàn nhạc Tân Tây Lan” thường xuyên bắn phá vào khu căn cứ Châu Pha, Hắc
Dịch, gây cho ta nhiều tổn thất và khó khăn.
Địch ngày càng tăng
cường đánh phá, phản kích quyết liệt, chúng quyết tâm lấn chiếm vùng giải phóng
và khu căn cứ của ta. Từ đầu năm 1967, bọn Úc tập trung đánh phá khu căn cứ Hắc
Dịch, Châu Pha. Địch sử dụng dàn pháo Tân Tây Lan, kết hợp với máy bay B.52 rải
thảm, ném bom phát quang, bom Napan, chất độc hóa học để hủy diệt rừng núi, khu
căn cứ cách mạng. Chúng khoanh khu vực Hắc Dịch là “mật khu Việt cộng”, xem tất
cả dân Hắc Dịch đều là “Việt cộng” nên thường xuyên oanh kích không hạn chế,
khi càn quét chúng bắn giết tất cả, không phân biệt già trẻ gái trai.
Trước tình thế vô
cùng ác liệt, để bảo vệ đồng bào, Huyện ủy Châu Đức chủ trương đưa dân Hắc Dịch
ra khu vực Cầu Vạt (Phước Thái) để tạo thế hợp pháp, bảo vệ dân, đồng thời tạo
cơ sở hợp pháp để cung cấp nguồn lương thực, thực phẩm cho hậu cần của huyện.
Đồng bào dân tộc Châu Ro kiên quyết xin ở lại, sống chết cùng bộ đội. Ban
Thường vụ Huyện ủy cử đồng chí Nguyễn Văn Kiềm xuống cùng Chi bộ Hắc Dịch lãnh
đạo đồng bào, và quyết định đưa cả chi bộ ra làng Cầu Vạt, chỉ để lại đồng chí
Bí thư và đội du kích ở lại chiến đấu. Chi bộ xã cử đồng chí Anh phó Bí thư Chi
bộ và một số cán bộ cơ sở, binh vận cùng đi theo để tiếp tục củng cố, bám địa
bàn và làm cầu nối cho liên lạc, nhất là tạo được cửa khẩu hậu cần lớn để tiếp
tế lương thực cho huyện và các đơn vị tỉnh, quân khu đang khó khăn thiếu lương
thực trầm trọng.
Chi bộ Hắc Dịch
tiếp tục xây dựng đội du kích mật ở Cầu Vạt, thường xuyên đánh địch phá thế kềm
kẹp của chúng. Các em thiếu nhi người Châu Ro trở thành lực lượng giao liên đắc
lực, hàng ngày vượt suối, cung cấp tin tức và đưa bộ đội, cán bộ vào làng lấy
gạo. Làng Cầu Vạt được xây dựng thành làng du kích. Hơn mười gia đình người dân
tộc Châu Ro từ Hắc Dịch chuyển về sống ở khu vực Nhà máy nước Bà Rịa đã trở
thành những cơ sở cách mạng tin cậy của Thị ủy Bà Rịa trong những năm sau đó.
Ở khu vực rừng Sác
và dọc lộ 15, địch tiếp tục tăng cường lực lượng chốt chặn bảo vệ tuyến đường
huyết mạch từ Sài Gòn – Biên Hòa về Bà Rịa, Vũng Tàu. Địch cho lực lượng quân
Úc và một số cụm pháo 105 ly về đóng chốt tại khu vực ấp Láng Cát (Phước Hoà)
nhằm đánh phá các xã dọc lộ 15 và các căn cứ của ta ở rừng Sác. Quân ngụy xây
dựng thêm đồn bảo an ở Rạch Tre (nay thuộc ấp Phước Hiệp, xã Hội Bài), xây thêm
tua cho một trung đội bảo an chốt giữ cầu Rạch Váng. Trên các sông rạch, địch
cho bọn giang thuyền Hắc Long ngày đêm kiểm tra liên tục, bất kể gặp ghe đi
chài lưới, giết hại cả chục thường dân đi làm ăn trên sông Hội Bài.
Mặc dù địch tăng
cường bảo vệ lộ 15 rất chặt chẽ, nhưng được các cơ sở nội tuyến và du kích mật
hoạt động tích cực, ngày 1 tháng 11 năm 1966, được cơ sở cung cấp tình hình, du
kích xã Phước Hòa kết hợp với Trung đoàn 4 phục kích trên lộ 15, bắn cháy 6 xe
GMC, diệt và làm tan rã một đại đội địch.
Do địch đánh phá
ngày càng ác liệt, tình hình các xã cũng hết sức khó khăn, Huyện ủy tăng cường
cán bộ về hỗ trợ cho các xã. Giữa tháng 7 năm 1966 đồng chí Nguyễn Văn Phúc
(tức Hai Phúc), Trưởng Ban Binh vận huyện về làm Bí thư chi bộ Phước Hòa, thay
đồng chí Đặng Văn Phó (rút về huyện). Đồng chí Nguyễn Thị Hạnh, cán bộ văn phòng
Huyện ủy được điều về làm Hội trưởng Hội phụ nữ xã Phước Hòa. Đồng chí Nguyễn
Văn Soạn thay đồng chí Khởi làm Xã đội trưởng.
Được tăng cường số
cán bộ phong trào ở huyện, lực lượng xã Phước Hòa chia làm 3 cánh để hoạt động
cho phù hợp với địa bàn. Một cánh do đồng chí Hai Phúc trực tiếp chỉ đạo, tập
trung vào công tác binh vận và vận động đồng bào công giáo, bám địa bàn ấp Chu
Hải và Kim Hải hoạt động. Hai cánh còn lại sử dụng ghe thuyền hoạt động trên
các sông rạch để liên lạc với đồng bào chài lưới, móc nối củng cố lại cơ sở,
hàng đêm đột ấp phát động quần chúng đấu tranh chống địch bắn pháo trên sông
rạch để đồng bào làm ăn, vận động thanh niên tòng quân giết giặc, vận động nhân
dân ủng hộ cách mạng. Qua tiếp xúc với đồng bào làm ăn trên các sông rạch, ta
đã vận động được số bảo an, dân vệ, số thanh niên trốn lính ra các cù lao làm
ăn thoát khỏi sự kềm kẹp của địch. Đội du kích đường sông được củng cố, vừa
theo dõi nắm tình hình địch, vừa vận chuyển lương thực, đưa đón và bảo vệ các
đoàn cán bộ, bộ đội đột ấp hoạt động.
Trên địa bàn xã Phú
Mỹ, do địch tăng cường lực lượng mạnh ở đồn, cũng như bọn bình định kiểm soát,
lục soát gắt gao nên phong trào và cơ sở cách mạng lắng xuống. Một vài cơ sở
tích cực hoạt động liên lạc được với cách mạng, nhưng không lọt qua được vòng
kiểm soát của địch nên đã bị bắt và tù đày như đồng chí Phan Thị Năm. Lực lượng
du kích phải liên tục chống trả, đối phó với các cuộc càn quét qui mô của quân
Úc và Ngụy, nhiều đồng chí đã chiến đấu dũng cảm để bảo vệ căn cứ và đã anh
dũng hy sinh như các đồng chí Hùng, Nhỏ, Thu, Qùi, Diệp và Vân. Để trả thù cho
những đồng chí, đồng đội đã anh dũng hy sinh, đồng chí Nguyễn Văn Thâm, xã đội
trưởng Phú Mỹ đã dũng cảm phục kích và tiêu diệt được một xe tăng thuộc lữ đoàn
173 của Mỹ đóng quân ở Bàu Ao, gần cây số 78 sát lộ 15.
Mặc dù bị địch đánh
phá, đàn áp phong trào, bắt bớ cơ sở nhưng nhân dân Tân Thành vẫn một lòng sắt
son với cách mạng. Đồng bào Hắc Dịch tuy phải sống tạm vùng địch kiểm soát ở
Cầu Vạt (Phước Thái) nhưng vẫn một lòng thủy chung với cách mạng. Được chi bộ
Hắc Dịch tổ chức và lãnh đạo, đồng bào ở Cầu Vạt xây dựng được một đội du kích
mật trên 10 đồng chí, thường xuyên đánh phá, nới lỏng kềm kẹp của địch.
Ở Phú Mỹ, dân đi
làm củi, hái măng, múc dầu chai đã chắt chiu từng lon gạo, viên thuốc len lỏi
vào rừng, không quân đạn pháo, bất chấp sự bắt bớ tù đày tiếp tế cho cách mạng,
tiêu biểu như ông Chín Dậu (tức Chín xào xạc). Các cơ sở đi làm cây, xe be như
ông Năm Huấn (tức Năm Quang), bà Hai Miên, gia đình ông Bảy Quế là những cơ sở tiếp
tế lương thực, thực phẩm, vải vóc cho cách mạng phục vụ cho cả các đơn vị bộ
đội Đoàn 10 trong nhừng giai đoạn khó khăn ác liệt và suốt trong thời kỳ kháng
chiến chống Mỹ.
Dù phải đối đầu với
lực lượng của địch đông và mạnh gấp 10 lần, cán bộ chiến sĩ ta được sự lãnh đạo
sáng suốt của Đảng, được nhân dân hết lòng ủng hộ, ta đã vượt qua nhiều khó
khăn ác liệt cơ sở được củng cố và phát triển, nhân dân và bộ đội ta vẫn kiên
cường bám trụ, đoàn kết một lòng đứng lên đánh giặc xâm lược, giải phóng quê hương
đất nước./.
Bài 28
Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968
____________________________
Tháng 12 năm 1967,
Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp hội nghị đánh giá tình hình và xác định nhiệm
vụ trọng đại cấp bách của ta là: “Động viên nỗ lực toàn quân, toàn dân ở hai
miền đưa cuộc chiến tranh cách mạng lên bước phát triển cao nhất bằng phương
pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định đạt những
mục tiêu sau đây: Tiêu diệt và làm tan rã tuyệt đại bộ phận ngụy đánh đổ ngụy quyền
các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, tiêu diệt một bộ phận quan
trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ, buộc Mỹ phải chịu thua Việt
Nam, chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối với miền Bắc, và ta đạt mục tiêu
trước mắt của cách mạng là độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập ở miền Nam
tiến tới thống nhất nước nhà”.
Quán triệt sự chỉ
đạo của Trung ương Cục, Tỉnh ủy đã xác định nhiệm vụ và kế hoạch tổng tiến công
và nổi dậy trên địa bàn tỉnh, chủ yếu là tiến công và nổi dậy ở hai thị xã Bà
Rịa và Long Khánh. Từ tháng 11 năm 1967, Tỉnh ủy chỉ đạo các huyện tăng cường
lực lượng cơ sở vật chất, tập luyện, ra sức củng cố cơ sở, đẩy mạnh công tác
binh vận, xây dựng nội tuyến bí mật chuẩn bị cho một cuộc tổng tiến công toàn
diện mở mảng, mở vùng, giải phóng xã ấp. Huyện ủy rút đồng chí Nguyễn Văn Phúc
về củng cố Ban Binh vận huyện, điều đồng chí Nguyễn Văn Giang làm bí thư chi bộ
xã Phước Hòa.
Chuẩn bị tập dợt
trước khi vào đợt, thực hiện sự chỉ đạo của tỉnh và của miền, các lực lượng vũ
trang huyện và xã tham gia đợt cao điểm “đại náo” mùa khô, đánh vào sào huyệt
của địch. Đêm 29 tháng 11 năm 1967, du kích Phước Hòa tham gia cùng bộ đội
huyện Châu Đức đánh vào ấp Kim Hải, phát động quần chúng, làm chủ tình hình
trong đêm, đến sáng 30 tháng 11 mới rút ra căn cứ.
Trên địa bàn Tân
Thành từ cuối năm 1967, phong trào cách mạng có những bước chuyển biến mới, khó
khăn dần được khắc phục, lực lượng cách mạng bắt đầu phát triển cả bên trong
lẫn bên ngoài. Các cơ sở cách mạng được củng cố và có nhiều hoạt động tích cực,
các tăng ni phật tử ở chùa Đại Tòng Lâm và các chùa ở khu vực núi Thị Vải đã
đóng góp nhiều lương thực, thực phẩm cho cách mạng. Tiêu biểu như thầy Bảy,
thầy Thiện (chùa Đại Tòng Lâm), cô Duyên (chùa Bửu Thiện) hàng tuần các tăng ni
phật tử lợi dụng khi đi chùa, đã qua mắt địch đem lương thực, thuốc men, bột
ngọt tiếp tế cho ta. Cô Duyên là cơ sở tích cực ủng hộ cho cách mạng, khi rang
muối chuẩn bị cho bộ đội xuống đường xuân Mậu Thân 1968, bị muối nổ văng hư một
con mắt. Sau này cô được chính phủ tặng Huân chương kháng chiến hạng Ba.
Bước vào chiến
dịch, thực hiện chỉ đạo của tỉnh và của huyện ủy, các xã Phước Hòa và Phú Mỹ
chuẩn bị kế hoạch và kết hợp sử dụng lực lượng tại chỗ như du kích lộ và mật,
cơ sở nội tuyến cùng với nhân dân nổi dậy bao vây đồn bót, phá tề ngụy, giải
tán lực lượng phòng vệ dân sự giành chính quyền làm chủ và xây dựng các lõm
chính trị.
Theo kế hoạch đã
triển khai, đúng ngày 2 tháng 2 năm 1968, khi tiếng súng của tiểu đoàn 445 đánh
vào thị xã Bà Rịa, lực lượng xã Phước Hòa tổ chức thành 3 mũi tiến công vào các
mục tiêu: ấp Kim Hải, ấp Láng Cát và điểm quan trọng là trung tâm xã Phước Hòa,
ta diệt và làm tan rã một trung đội nghĩa quân, truy lùng bọn tề ấp, tề xã, do
thám, mật vụ, cảnh sát và yêu cầu tất cả anh em binh sĩ, sĩ quan về nhà ăn tết
phải hạ và giao nộp vũ khí cho cách mạng. Lực lượng cách mạng cắm cờ Mặt trận
và làm chủ hoàn toàn suốt đêm ở ngay trung tâm xã Phước Hòa. Bọn bảo an và tề
xã tan rã trốn sạch, nhân dân rất phấn khởi càng tin tưởng và ủng hộ cách mạng.
Ban ngày địch củng
cố lực lượng chiếm lại trụ sở xã, ban đêm du kích lại đánh chiếm, cắm cờ, giằng
co trong suốt một tuần. Cho đến khi lực lượng của địch ở tiểu khu điều về tăng
cường giải tỏa, ta mới chịu rút ra căn cứ. Đồng chí Nguyễn Thị Hạnh, Hội trưởng
Hội phụ nữ xã Phước Hòa đảm nhiệm một mũi, trực tiếp phát động quần chúng,
thường xuyên tham gia cùng du kích trong các đợt công đồn, đột ấp. Đồng chí bị
địch phục kích bắn chết trong một đêm phát động quần chúng, để lại niềm tiếc
thương cho đồng chí, đồng bào.
Lực lượng C.3 của
D445 bộ đội tỉnh sau khi rút ra khỏi thị xã Bà Rịa lui về căn cứ M, sau đó
triển khai hoạt động trên tuyến lộ 15, tấn công đánh sập tua Rạch Váng, tiêu
diệt một tiểu đội nghĩa quân, trong đó có tên ác ôn Sáu Chích, ta thu toàn bộ
vũ khí.
Ở xã Phú Mỹ, để
chuẩn bị tham gia tổng tiến công và nổi dậy, từ cuối năm 1967, tình hình tổ
chức và lực lượng đã được củng cố một bước khá mạnh. Nhất là các cơ sở binh vận
rất tích cực vận động nhân dân đi xe be, làm công cũng như tăng ni phật tử ở
các chùa đã nhiệt tình ủng hộ tiếp tế lương thực, thuốc men cho cán bộ, bộ đội
chuẩn bị xuống đường, lực lượng du kích xã Phú Mỹ phát triển được 10 đồng chí.
Đồng chí Huỳnh Văn Sen là xã đội trưởng.
Thực hiện sự chỉ
đạo của tỉnh và huyện, chi bộ Phú Mỹ đã vận động nhân dân, lực lượng du kích
mật và cơ sở với khí thế xuống đường, liên tục từ đêm 2 tháng 2 năm 1968, với
cuốc, xà beng, cúp, xẻng, tập trung đào phá đường, đắp mô, ngăn chặn giao thông
địch. Cuộc phá đường này được nhân dân các ấp Mỹ Xuân, Ông Trịnh, và Hội Bài
tham gia tích cực cùng với lực lượng du kích đào phá đường, tạo được một phong
trào sôi nổi từ lộ 15 đến lộ 2. Lực lượng du kích xã vừa bố trí chặn đánh địch
vừa cùng đồng bào tích cực đào phá đường.
Qua tiến công đợt I
xuân Mậu Thân, xã Phước Hòa đã giành được nhiều thắng lợi, đã có 5 thanh niên
hăng hái thoát ly tham gia du kích xã và bộ đội huyện, đồng chí Nguyễn Trung
Hiếu, Trưởng Ban chính trị huyện đội về xã Phước Hòa tiếp tục củng cố lực lượng
và đề ra kế hoạch bám và trụ lại để chuẩn bị cho tiến công đợt II, xã Phước Hòa
đã phát triển được 5 đảng viên lớp Hồ Chí Minh.
Du kích Phước Hòa
tích cực sưu tầm pháo lép (đầu đạn 105 ly) của địch về chế thành mìn tự tạo
đánh địch. Xã đội trưởng Nguyễn Văn Soạn có kinh nghiệm gài trái, diệt nhiều xe
địch trên lộ 15. được tin của cơ sở nội tuyến cho hay, tháng 3 năm 1968 sẽ có
đoàn xe khoảng 100 chiếc các loại của Mỹ di chuyển từ quân cảng Vũng Tàu về
Biên Hòa, du kích xã Phước Hòa kết hợp với lực lượng công binh huyện và công
binh Miền gài một trái bom 250kg tại cống Nước ngọt (thuộc ấp Hải Sơn hiện
nay). Đúng 8 giờ sáng, chiếc xe đi đầu đến ngay địa điểm đặt bom, một tiếng nổ
lớn và cột khói bốc cao làm chiếc xe tan xác, 3 tên địch đi trên xe đầu chết
tại chỗ, đoàn xe địch ách tắc đậu dài từ ấp Hải Sơn đến cầu Rạch Váng (khoảng
5km). bọn địch trên đoàn xe tràn xuống ấp chiến lược Hội Bài bung ra tìm kiếm
lực lượng ta, chúng dùng cả cây sắt chọc kiếm hầm bí mật, nhưng chẳng bắt được
tên “Việt cộng” nào. Lực lượng ta được đồng bào che chở, tạo điều kiện rút
nhanh về bến cầu Quan ra căn cứ rừng Sác an toàn.
Để chuẩn bị tiến
công đợt II, huyện còn tăng cường cho Phước Hòa một số cán bộ phong trào về bám
trụ cơ sở. Du kích Phước Hòa cùng bộ đội địa phương huyện Châu Đức đã bám sát
mục tiêu, nắm chính xác địa thế bố phòng, đóng quân của trung đội bảo an địch ở
Đình Thần, ngay từ loạt đầu tiên, một số tên chết tại chỗ, số ít còn lại chống
cự yếu ớt rồi rút chạy từ bến Bà Phóng, ở đây chúng bị một cánh quân ta phục
kích trước đánh cho tơi tả, kết quả tên thiếu úy Điểm, đại đội phó đại đội bảo
an ở đồn Rạch Tre và 10 tên khác chết tại trận, bắt sống 2 tên, thu 11 súng các
loại.
Địch liên tiếp bị
thất bại và tiêu hao lực lượng nên chúng co lại trong đồn chờ củng cố bổ sung
lực lượng. Ta làm chủ tình hình ban đêm ở trung tâm xã Phước Hòa. Tiếp theo đó,
lực lượng D 445 của tỉnh và du kích xã Phước Hòa tổ chức pháo DKZ làm bể nóc
đồn, diệt 4 tên, cùng lúc một cánh quân ta tiến công ấp chiến lược Phước Hòa,
truy lùng và diệt một tên tề làm an ninh ấp sau đó ta vận động nhân dân tập
trung làm mít tinh biểu dương chiến thắng đợt tiến công Mậu Thân, đồng thời lên
án tội ác và cảnh cáo các tên tay sai ác ôn.
Phát huy thắng lợi
xuân Mậu Thân 1968, quần chúng rất phấn khởi bung ra tự do sản xuất, ủng hộ
cách mạng. Số cán bộ huyện tăng cường và lực lượng binh vận huyện cùng cán bộ
xã bám trụ lại trong dân, được dân nuôi dấu dưới hầm bí mật trong nhà cho cán
bộ bám trụ. Cơ sở và phong trào cách mạng phát triển mạnh, lực lượng du kích lộ
và mật thường xuyên phối hợp tổ chức bắn tỉa, đắp mô, kết hợp với công binh
huyện đánh sập cầu Rạch Chanh gây ách tách giao thông thường xuyên trên lộ 15
và rải nhiều truyền đơn tác động tinh thần ngụy quân ngụy quyền.
Trong cuộc tổng
tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968, quân dân Tân Thành đã thực hiện nghiêm
chỉ đạo của Tỉnh ủy, đã chiến đấu trên địa bàn cực kỳ khó khăn, những đợt tiến
công liên tiêp đã thể hiện quyết tâm rất cao của Đảng bộ và nhân dân toàn
huyện, giành được nhiều thắng lợi to lớn, góp phần trong việc buộc Mỹ phải
xuống thang chiến tranh và chuyển hướng chiến lược một cách bị động.
Qua tiến công và
nổi dậy, một số cơ sở đơn vị du kích, bộ đội địa phương bị tổn thất, một số cán
bộ và chiến sĩ hy sinh nhưng với quyết tam và tinh thần chiến đấu dũng cảm và
kiên trì của cán bộ chiến sĩ, sự nhiệt tình ủng hộ cách mạng của nhân dân Tân
Thành, thực lực cách mạng vẫn ngày một phát triển. Hàng trăm thanh niên nam nữ
trong huyện hăng hái thoát ly tham gia du kích, bộ đội. Mạng lưới cơ sở, lực
lượng du kích mật được củng cố và phát triển, hàng loạt các ấp chiếc lược kiên
cố của địch bị phá banh, bọn tề tay sai và ngụy quân hoang mang rệu rã. Các xã
Phước Hòa, Phú Mỹ ta làm chủ tình hình ban đêm. Quần chúng nhân dân phấn khởi,
bung ra sản xuất, và càng tin tưởng vào cách mạng./.
Bài 29
Chống phá chương trình bình định cấp tốc của Mỹ - Ngụy
________________________________
Cuộc
tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã đánh dấu sự phá sản của chiến
lược chiến tranh cục bộ, đẩy đế quốc Mỹ và tay sai vào một cuộc khủng hoảng
mới. Tổng thống Giônxơn buộc phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc, ngồi đàm
phán với ta ở Hội nghị Pari, không ra tranh cử nữa. Tổng thống Nichxơn lên nhậm
chức vào đầu năm 1969 đã đề ra chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, với âm mưu
“dùng người Việt đánh người Việt”, bằng viện trợ Mỹ, cố vấn Mỹ, phương tiện
chiến tranh của Mỹ. Để phục vụ chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, từ tháng
4 năm 1969 đến tháng 6 năm 1970, địch triển khai chương trình “bình định đặc
biệt” trên toàn miền Nam.
Đầu năm 1969,
Thường vụ Trung ương Cục ra chỉ thị 71 chỉ đạo toàn Đảng, toàn quân, toàn dân
tiếp tục “xốc tới đẩy mạnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa trên cả vùng”. Nhiệm
vụ của đợt là: tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch, phương tiện của Mỹ, cơ sở hậu
cần, làm tan rã một phần quân ngụy, đẩy mạnh hoạt động nông thôn, diệt ác phá
kềm, phá thế chia cắt bao vây, đánh âm mưu bình định, mở rộng vùng làm chủ, đưa
phong trào đấu tranh chính trị, binh vận ở đô thị lên một bước, đẩy mạnh công
tác binh vận và xây dựng lực lượng mật. Phương châm chỉ đạo đợt tiến công xuân
Kỷ Dậu 1969 là tích cực, kiên quyết, linh hoạt, táo bạo, vững chắc, kết hợp ba
mũi giáp công.
Bà Rịa-Vũng Tàu là
tuyến “chân thang” bảo vệ các cuộc rút quân của các đơn vị viễn chinh Mỹ. Do
vậy chiến trường trên địa bàn Bà Rịa nói chung, Tân Thành nói riêng diễn ra vô
cùng gay go và ác liệt. Nên từ giữa năm 1969, để ngăn ngừa và đối phó với các
đợt tiến công của ta, bọn Mỹ huy động cả lực lượng quân Úc và ngụy, mở nhiều
đợt càn quét, “chà đi xát lại” khu căn cứ Châu Pha – Hắc Dịch bắn phá liên tục,
kể cả khu vực rừng Sác. Chúng sử dụng đội giang thuyền với 20 chiếc bo bo ngày
đêm tuần tra len lỏi trên các sông rạch từ Long Hương đến Phước Hải, phối hợp
bắn phá dọc khu rừng Sác. Bên trong bọn bảo an, bình định kiểm sát gắt gao, gây
cho lực lượng cách mạng rất nhiều khó khăn. Các đơn vị đóng căn cứ ở rừng Sác,
thiếu lương thực, thuốc men, đặc biệt là nước ngọt. Nhiều ngày cán bộ chiến sĩ
ta phải tắm rửa bằng nước mặn ở sông rạch. Mỗi chuyến tổ chức về Phước Hòa lấy
nước là mỗi lần chịu tổn thất, hy sinh.
Ngoài việc dùng bom
đạn phát quang, địch còn sử dụng chất độc hóa học hủy diệt toàn bộ cánh rừng,
dùng xe ủi, ủi phá hai bên trục lộ giao thông phía Bắc lộ 15 và ủi sâu vào khu
căn cứ Hắc Dịch. Nhất là từ giữa năm 1969, chuẩn bị cho việc Mỹ rút quân, địa
bàn Tân Thành trở thành “chân thang” của chúng. Các loại máy bay Mỹ, Úc trút
hàng ngàn tấn bom đạn, bom napan, bom bi, chất độc hóa học xuống vùng rừng núi
Châu Pha, núi Thị Vải và căn cứ Hắc Dịch, nhằm hủy diệt toàn bộ mầm sống vùng
này. Bọn biệt kích ngày đêm lùng sục, phát hiện dấu vết, đánh phá ác liệt khu
căn cứ của huyện. Căn cứ của huyện phải di chuyển liên tục. Xã mất liên lạc với
huyện, huyện mất liên lạc với tỉnh. Hầu hết các xã đều bị đánh bật ra ngoài,
không bám được dân, tình trạng thiếu đói rất trầm trọng, cán bộ chiến sĩ ta
phải đào củ nần, củ chụp, hái rau rừng để sống.
Để thực hiện kế
hoạch “bình định cấp tốc”, địch tập trung mọi lực lượng đánh phá ta từ bên
ngoài lẫn bên trong vùng địch tạm chiếm. Bên trong, kết hợp với bon ác ôn, bọn
tề, bảo an và bình định ngày đêm lùng sục đánh phá phong trào cách mạng cơ sở
trong các xã, ấp. Địch không chừa một âm mưu thủ đoạn nào, từ lừa mị dân, đến
các thủ đoạn tâm lý tinh vi đối với đồng bào ta. Thâm độc hơn, chúng thực hiện
chính sách “bao vây sự sống”, chúng cấm không cho dân dự trữ nhiều gạo trong
nhà, chỉ cho xay lúa theo quy định và số lượng chúng cho phép, ngăn chặn mọi
khả năng cung cấp lương thực cho cách mạng.
Tại các xã Phú Mỹ
và Phước Hòa, địch tăng cường củng cố lại tề xã, ấp, củng cố và trang bị vũ khí
cho lực lượng bảo an và nhân dân tự vệ, chúng còn tung bọn an ninh, mật vụ và
bình định đến tận các ấp, bọn này ăn ở ngay trong nhà dân để dễ bề kiểm soát và
thực hiện các thủ đoạn ly gián quần chúng với cách mạng. Nhất là bọn Úc và bọn
bảo an, chúng bắt dân ra tập trung từng khóm ấp để tìm diệt cán bộ và cơ sở,
bắt bớ hàng trăm đồng bào vô tội. Bọn bảo an còn lợi dụng khi lùa dân ra khu
tập trung để vơ vét tài sản của nhân dân.
Chi bộ và du kích
các xã bị chúng đánh dạt ra ngoài không bám và bảo vệ lãnh đạo được quần chúng.
Chi bộ xã Phước Hòa do địch đánh phá ác liệt không liên lạc được với huyện,
phải dời về bám trụ ở rừng Sác. Giang thuyền địch tuần tra dày đặc trên sông
rạch, cán bộ và du kích Phước Hòa phải len lỏi sống trên các cù lao và rừng chà
là, không bám được dân nên cả tháng trời phải ăn uống bằng nước sông, ăn cua,
ốc, đọt chà là thay cơm. Trong lúc khó khăn ác liệt như vậy, số đồng bào là cơ
sở phải vượt qua bao khó khăn, bất chấp bom đạn và tù đày, bằng nhiều hình thức
che mắt địch chắt chiu từng lon gạo, hạt muối, viên thuốc, quần áo, nhất là
nước ngọt để tiếp tế cho cách mạng.
Ở Phú Mỹ, chi bộ và
cơ sở binh vận đã vận động được các tăng ni phật tử ở các chùa đóng góp giúp
nhiều lực lượng, thực phẩm thuốc men và các vật dụng khác cần thiết cho cán bộ,
bộ đội huyện, tiêu biểu là tăng ni phật tử ở các chùa Đại Tòng Lâm, chùa Vạn
Hạnh, chùa Ông Sáu. Chi bộ Phú Mỹ xây dựng được nhiều cơ sở ở ấp Lò Than, ấp
Vạn Hạnh, khu vực Đại Tòng Lâm. Lực lượng huyện và xã bám địa bàn này để nhận
đồ tiếp tế và nắm tình hình địch. Đồng bào Hắc Dịch sinh sống ở Phước Thái là
một trong những chỗ dựa về hậu cần cho lực lượng huyện trong thời kỳ này.
Trong những năm
tháng địch tăng cường đánh phá ta ác liệt, lực lượng huyện tiêu hao nhiều, du
kích các xã cũng tổn thất nặng nề, cơ sở và nhân dân bị địch đàn áp bắt bớ tù
đày, tình hình chung của huyện gặp rất nhiều khó khăn; Nhưng được Huyện ủy lãnh
đạo với tinh thần quyết tâm “bám đất bám dân” kiên trì khắc phục những khó khăn
trước mắt để vượt qua. Nhân dân cũng một lòng tin Đảng và ủng hộ cách mạng.
Đầu năm 1969, Tỉnh
ủy triển khai Nghị quyết 71 của Trung ương Cục cho các Huyện ủy, đẩy mạnh ba
mũi giáp công, đánh phá một bước âm mưu bình định của Mỹ-ngụy. Phối hợp với
hoạt động của lực lượng vũ trang, công tác vũ trang tuyên truyền ở khu vực lộ
15 cũng được đẩy mạnh.
Từ tháng 3 năm
1969, Thị ủy, Thị đội Vũng Tàu chuyển về xây dựng căn cứ ở Núi Dinh, tiếp nhận
xã Long Sơn (thuộc thị xã Bà Rịa), bám địa bàn rừng Sác ven lộ 15 để làm bàn
đạp tiến công vào nội ô thị xã. Trước đó, miền tăng cường cho đội Vũng Tàu một
đại đội đặc công thủy (A.32) quân số 65 đồng chí, vừa được huấn luyện chính quy
từ miền Bắc vào, triển khai xây dựng căn cứ tại rừng Sác, sử dụng kỹ thuật đặc
công thủy để đánh vào các căn cứ quân sự của địch của Vũng Tàu. Đơn vị A32 đặc
công thủy đóng tại căn cứ Bàn Thạch, huấn luyện kỹ chiến thuật đánh tàu thuyền.
Ngày 23 tháng 5 năm 1969, từ căn cứ Bàn Thạch, A32 chia làm 2 mũi, đánh chìm 2
tàu giặc trọng tải 10 ngàn tấn tại bến cảng Cát Lở. Quân và dân Phú Mỹ, Phước
Hòa đã giúp cho A32 xây dựng căn cứ, tổ chức hậu cần và huấn luyện tác chiến
trên vùng Rừng Sác quê hương.
Tháng 6 năm 1969,
Tổng thống Mỹ Nichxơn xuống thang chiến tranh, tuyên bố rút 25 ngàn quân viễn
chinh Mỹ. Để bảo vệ vùng chân thang Bà Rịa-Vũng Tàu, địch tổ chức hàng loạt
cuộc hành quân càn quét chà đi xát lại trên tuyến lộ 15, đánh phá ác liệt khu
tam giác sắt Phú Mỹ-Hắc Dịch-Châu Pha. Thực hiện chiến lược “Việt Nam hoá chiến
tranh”, Mỹ-ngụy ráo riết tiến hành chương Bình Định cấp tốc các vùng nông thôn.
Địa bàn lộ 15 là một trong những trọng điểm bình định của địch, nhằm bảo vệ
tuyến “chân thang” rút quân của các đơn vị quân viễn chinh Mỹ. Cuộc đọ sức giữa
ta và địch diễn ra vô cùng quyết liệt.
Máy bay Mỹ trút
hàng ngàn tấn bom đạn và chất độc hóa học xuống Núi Dinh, núi Thị Vải, huỷ diệt
toàn bộ sự sống vùng này. Vùng rừng Giồng, rừng Sác phía tây lộ 15 hầu như trở
thành bình địa. Chúng dùng máy ủi, xe tăng, ủi nát địa hình các khu rừng trong
huyện, dùng mìn đánh sập các hang hốc, khe đá. Máy bay trinh sát, bọn biệt kích
ngày đêm lùng sục, tìm diệt lực lượng ta. Hải thuyền, giang thuyền, bo bo của
hải quân, biệt kích, thám báo tuần tra ngày đêm trên các sông rạch ở rừng Sác,
truy tìm từng dấu chân, từng tiếng động, đánh phá tất cả những lùm cây, bụi cỏ
trên đất liền cũng như dưới những bờ kênh.
Chiến trường Bà Rịa
nói chung và Tân Thành nói riêng trong thời kỳ này đặc biệt căng thẳng và ác
liệt, vùng căn cứ bị thu hẹp và bị địch đánh phá thường xuyên, hậu cần quân nhu
thiếu thốn, căn cứ không ổn định, thông tin liên lạc bị gián đoạn, giữa xã
huyện tỉnh không còn liên lạc được, các ngả đường giao thông đều bị cắt đứt.
Các xã Phú Mỹ, Phước Hòa phải di dời căn cứ liên tục, khi xuống rừng Sác, khi
lên rừng Giồng, có khi 6 tháng liền không liên lạc được với huyện. Đói kém và
bệnh tật triền miên. Có lúc gạo ít chỉ dành nấu cháo cho thương bệnh binh, còn
bộ đội, cán bộ phải ăn chuối rừng, rau rừng. Nhiều đồng chí vết thương cũ chưa
lành đã bị thêm vết thương mới, không ít thương binh nặng đã hy sinh vì thiếu
thuốc.
Từ giữa năm 1969,
địch phản kích trên toàn địa bàn. Quân chủ lực Mỹ, ngụy, chư hầu càn quét đánh
phá vòng ngoài; bảo an, dân vệ lùng sục vùng trung tuyến; cảnh sát, tề điệp
“phượng hoàng” đánh phá và bình định bên trong. Ngoài các hoạt động quân sự với
lực lượng tổng hợp Mỹ-ngụy-chư hầu, đánh phá ác liệt bên ngoài, địch còn tiến
hành gấp rút âm mưu bình định bên trong, tăng cường kềm kẹp, ly gián nội bộ
quần chúng và quần chúng với cách mạng bằng lực lượng biệt động và chiến tranh
tâm lý và bằng thủ đoạn “bao vây sự sống”, phong tỏa ngăn chặn phong trào quần
chúng tiếp tế cho ta. Ngoài ra chúng còn kết hợp với quân chư hầu Úc thường
xuyên rình rập, tuần tra, xăm hầm để tác động, hù dọa quần chúng phục vụ cho âm
mưu bình định của chúng.
Tại các vùng căc cứ
Núi Dinh-Thị Vải, biệt kích Úc phối hợp với ngụy quân chia thành từng toán nhỏ
lùng sục trong rừng. Hầu hết các con đường mòn đều có địch phục kích. Các loại
máy thu phát tiếng động được rải khắp nơi phục vụ cho pháo binh và máy bay bắn
phá. Bọn tâm lý chiến, bọn đầu hàng từ trên máy bay dùng loa phóng thanh ngày
đêm ra rả gọi tên cán bộ, chiến sĩ ta, tác động tâm lý, tinh thần anh chị em.
Từ ngày 30 tháng 8 đến ngày 5 tháng 9 năm 1969, Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị học
tập nghị quyết bổ sung về chống phá ấp chiến lược và chống phá bình định cấp
tốc. Đồng chí Phạm Văn Hy được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy thay đồng chí Lê Đình
Nhơn (được rút về khu). Được tin Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu vừa qua đời,
Tỉnh ủy đã cử hành lễ truy điệu Người và phát động một phong trào biến đau
thương thành hành động cách mạng, đánh mạnh vào chương trình bình định cấp tốc
và hệ thống ô ụ ngầm của địch. Sau hội nghị tháng 9 năm 1969, Tỉnh ủy cử đồng
chí Nguyễn Văn Kiềm về làm Phó bí thư huyện ủy kiêm huyện đội trưởng huyện Châu
Đức.
Từ ngày 20 tháng 9
năm 1969, huyện ủy triển khai tinh thần Nghị quyết bổ sung về chống phá ấp
chiến lược và chống phá bình định cấp tốc của tỉnh cho các xã, tổ chức lễ truy
điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu và phát động phong trào biến đau thương
thành hành động cách mạng, đánh mạnh vào chương trình bình định cấp tốc của
địch. Mặc dù sống trong vùng địch kềm kẹp, nhân dân Tân Thành vẫn để tang Bác
dưới nhiều hình thức và tổ chức học tập lời Di chúc và gương chiến đấu hy sinh
trọn đời của Người cho độc lập tự do của tổ quốc. Các đơn vị trong toàn huyện
ra sức khắc phục khó khăn quyết tâm bám địa bàn, bám dân, củng cố lực lượng xây
dựng lại cơ sở và phát động quần chúng nhân dân đấu tranh đánh bại kế hoạch
“bình định cấp tốc” của địch.
Huyện ủy chủ trương
thực hiện 3 bám: bám xã, bám dân, bám địa bàn để hoạt động. Lực lượng vũ trang
huyện cũng phân tán thành từng tiểu đội về cùng với lực lượng các xã bám dân,
bám địa bàn hoạt động. Căn cứ Huyện ủy vẫn bám vùng tam giác Châu Pha, Hắc Dịch
củng cố lực lượng sẵn sàng chiến đấu chống địch càn quét. Do đó đã tạo được thế
chủ động xây dựng ổn định cơ sở bên trong và tiếp tục lãnh đạo được phong trào
cách mạng của quần chúng, củng cố được hoạt động các tổ chức Đảng, các chi bộ B
(chi bộ mật), lực lượng của huyện, tạo thế bám trụ ngày càng vững chắc.
Khu vực Phú
Mỹ-Phước Hòa và Hắc Dịch-Châu Pha được Mỹ ngụy coi là vùng “Tam giác sắt” án
ngữ lộ 15, nối liền các khu căn cứ trong tỉnh, nên chúng không loại trừ
một âm mưu, thủ đoạn nào để đánh phá và tiêu diệt. Trên địa bàn lộ 15, địch còn
tiến hành cho xây dựng các nông trường như Song Vĩnh, Phước Lập, đưa Việt kiều
Campuchia về khai khẩn lập thêm ấp Mỹ Thạnh và nông trường Lam Sơn (ấp Lam
Sơn), ấp Hải Sơn, hình thành thế bao vây các căn cứ cách mạng và làm bàn đạp
tấn công các căn cứ cơ quan đầu não của huyện, tỉnh và hậu cần.
Đây là thời kỳ gian
khổ ác liệt nhất của huyện và của tỉnh trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước. Căn
cứ liên tục bị vây ép, đánh phá, lực lượng cách mạng bị tổn thất nặng nề, cán
bộ chiến sĩ phải ăn rau rừng, củ nần để cầm sức, lương thực, thuốc men, đạn
dược thiếu trầm trọng. Trước muôn vàn khó khăn tưởng chừng không vượt qua nổi,
trong tình hình đó, Huyện ủy xác định: nhân dân còn, thì Đảng bộ vẫn tồn tại.
Từ đó Huyện ủy chỉ đạo tăng cường công tác tư tưởng chính trị, củng cố cơ sở và
lực lượng, chống lại những âm mưu chiến tranh tâm lý của địch, đánh bại kế
hoạch lấn chiếm và tiêu diệt căn cứ của địch.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét