TÂM SỰ CỦA THẦY
Một
chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy. Đó là lý lẽ của đạo đức tưởng chừng như
hiển nhiên. Vậy mà một lần, có trò hỏi: Thưa thầy, dạy người một chữ cũng là
thầy thì đúng rồi, nhưng nửa chữ thì sao lại là thầy được ạ? Vì nửa chữ thì vô
nghĩa hoàn toàn ạ! Chợt giật mình vì những điều tưởng chừng là “hiển nhiên” hóa
ra lại không hẳn là hiển nhiên. Hóa ra câu nói ấy trong nghĩa đen chỉ đúng với
văn tự cổ, chữ tượng hình, ghi ý. Hai (hoặc nhiều) bộ phận ghép lại thành chữ,
thành từ. Xé đôi chữ ra vẫn còn chữ, còn nghĩa. Như chữ minh (sáng) nếu cắt
thành hai nửa chữ thì sẽ có chữ nhật (Mặt Trời) và nguyệt (Mặt Trăng).
Nhiều trường hợp tương tự như vậy. Một chữ bẻ đôi cũng không
biết, thành ngữ này chỉ hiện tượng mù chữ. Cũng một lần có em học sinh ngơ ngác
rất hồn nhiên: Thưa thầy kể cả người thông minh, học cao, thì một chữ bẻ đôi
cũng không biết thì đâu có gì lạ. Để nguyên chữ thì mới biết chứ. Hóa ra thế.
Chữ nhất (một) trong cổ tự bể đôi thành chữ nhị (hai). Còn chữ nhất trong chữ
quốc ngữ bẻ đôi thành chữ gì đây?!
Có lần một học sinh thắc mắc, thưa thầy cá không ăn muối cá ươn,
chưa chắc thế đâu thầy ạ! Cá không ăn muối nhưng cho vào tủ lạnh thì đâu có ươn
ạ!
Một lần, một thầy giáo giảng câu: “Dù ai nói ngả nói nghiêng-Lòng ta vẫn vững
như kiềng ba chân”. Kiềng ba chân là kiềng vững nhất các em ạ! Một bé gái học
sinh đứng dậy thắc mắc: "thưa thầy em chưa thấy kiềng ba chân ạ". Một
học sinh khác, lớn hơn, “thông tin” thêm, thưa thầy kiềng ba chân chỉ vững trên
một mặt phẳng tương đối hoặc trên nền đất bếp có lồi lõm. Còn trên một mặt
phẳng gần như tuyệt đối của mặt đá thì kiềng bốn chân vững hơn thầy ạ. Bếp củi
mới dùng kiềng ba chân, còn bếp ga dùng kiềng bốn chân ạ.
Sách là ấn phẩm để học, đọc, tham khảo. Vở dùng để ghi chép. Ngày
nay, các em học sinh cấp 1 làm bài tập ngay trên trang sách, chép luôn vào
sách. Do vậy, khái niệm sách, vở cũng cần phải được hiểu mới.
Thế đấy, thời gian đi qua và cuộc sống nhiều đổi thay. Sự bảo thủ của từ ngữ
đôi khi chỉ là lưu lại ký ức và không còn chính xác với nghĩa đương đại nữa.
Học hỏi là vô cùng. Tiếp cận cái mới là một kỹ năng sống tích cực. Nhất là từ
thập niên cuối của thế kỷ 20, công nghệ thông tin mà thành quả cụ thể là chiếc
máy tính cá nhân nối mạng đã làm nên những thay đổi vô cùng to lớn trong tiến
trình lịch sử nhân loại. Đã sang cuối thu, sen đã thực sự tàn úa. Thầy không
thể gói kiến thức của mình trong tấm lá sen héo khô của mùa thu để trao cho các
em trong mùa hạ... Một số thầy cô đã tụt hậu. Tất nhiên, cũng có rất
nhiều thầy cô biết tự vươn lên và theo kịp, nhưng kiến thức mênh mông,
không thể tránh khỏi có những phút giây bối rối trước học trò. Nhân
danh sự bao dung chữ “lễ” truyền thống, nhân danh sự phát triển biện chứng, các
em hãy cùng thầy cô xây đắp kiến thức trên tinh thần xây đắp chung một mái
trường các em nhé! Đó cũng là một tặng phẩm quý giá của các em gửi đến
thầy cô nhân ngày 20/11. Cảm ơn các em!
TRẦN THỊ THANH HUYỀN
(phóng viên)
Chuyện nhỏ thời chiến
tranh
Đầu mùa khô 1968,
đơn vị pháo xạ của chúng tôi hoạt động ở Quảng Bình, tôi và anh Thụy được cử đi
dự Đại hội thi đua quyết thắng toàn trung đoàn ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh.
Tôi là chiến sĩ
thông tin, mười chín tuổi, chưa hề có một mảnh tình vắt vai. Với tôi, đời lính
chiến nhẹ tênh, “chết xanh cỏ, sống đỏ ngực”. Còn anh Thụy mới đề bạt trung đội
trưởng pháo, hơn tôi sáu tuổi, cưới vợ bảy ngày đã nhập ngũ, xa quê. Cả đơn vị
đều biết, anh Thụy là con trai một, bố anh mất sớm nên mơ ước lớn nhất của mẹ
anh là đứa cháu nội, nhưng chưa thực hiện được. Hồi trung đoàn làm nhiệm vụ bảo
vệ cầu Long Biên, không hiểu bằng cách nào, chị Thơ, vợ anh lại biết địa chỉ
đóng quân, từ trong quê Đức Thọ tìm ra. Nếu theo nguyên tắc bí mật của bộ đội
phòng không thời chiến anh Thụy sẽ bị kỷ luật. Thế nhưng, thông cảm với hoàn
cảnh vợ chồng anh, đơn vị đã dựng tạm “căn lều hạnh phúc” bằng bạt pháo để vợ
chồng anh hưởng “tuần trăng mật”. Tiếc thay, chị về quê viết thư báo tin buồn,
“chuyện ấy” không thành.
Thấm thoát hai năm
trôi qua, anh Thụy chưa một lần gặp lại người vợ trẻ. Khi trung đoàn vào khu
bốn, cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ ở “vùng cán xoong” càng ác
liệt hơn nên anh Thụy càng ít có hy vọng ghé thăm nhà.
Lần này chắc ước mơ
của anh thành hiện thực. Trước khi đi Đại hội, chính trị viên bảo chúng tôi có
thể tranh thủ nghỉ lại nhà anh Thụy lúc quay vào. Đại đội trưởng còn vỗ vai tôi
dặn dò tế nhị: “Cậu phải chăm nom sức khỏe trung đội trưởng Thụy đấy nhé”.
… Sau đại hội chúng
tôi vội vã trở về Quảng Bình bằng đường giao liên. Dọc đường anh Thụy vui lắm.
Anh khoe có cô em vợ xinh đẹp tuyệt vời, rồi hứa làm mai cho tôi. Anh say sưa
kể chuyện làng anh, xóm anh, rồi giếng nước ngọt như đường phèn gần nhà anh.
Tôi hỏi: “Về đến nhà anh làm gì trước?”. Anh bảo: “Ôm vợ!”. Tôi hỏi: “Các anh
lấy vợ rồi, quên cả mẹ!”. Anh Thụy cười ha hả: “Chú mày tồ! Tình cảm mẹ con
thật vĩ đại nhưng không giống tình yêu. Đại để tình yêu như trái ớt đỏ, nhìn
thấy đẹp, cắn thấy cay, ăn quen hóa say, hóa nghiện”. Tôi bảo tôi không ăn được
ớt, tôi không hiểu. Anh Thụy véo tai tôi: “Bằng tuổi cậu tớ đã biết thơm má
nàng”. Đột nhiên, anh Thụy buồn rầu bảo: “Nói vậy thôi, tớ trót rồi, cậu không
nên vướng vòng tình ái sớm, thời chiến yêu đương khổ lắm. Nhiều đêm tớ trằn
trọc khó ngủ, thương Thơ quá! Mới bén hơi chồng đã phải chia ly. Tớ nói thật,
ngày ở Hà Nội tớ đã liều viết thư báo cho Thơ biết địa chỉ đóng quân đấy. Ăn
nằm với nhau hai đêm, lúc chia tay nàng ôm ghì lấy tớ khóc nức nở… Xuýt nữa hóa
thằng đào ngũ! “Im lặng một lúc rồi anh thủ thỉ kể: “Chuyện yêu đương của tớ
cũng kỳ lắm! Thơ kém tớ bốn tuổi, nhà cùng xóm, nhưng tớ không để ý. Một đêm
mùa hạ, gió lào hầm hập, nóng quá, tớ lò mò tìm ra giếng nước đầu xóm định giội
mấy gầu cho mát. Gần tới bờ giếng nghe tiếng nước xối, tớ dừng lại, nấp vào bụi
cây. Dưới ánh trăng mờ mờ huyền ảo là thân thể nõn nà với bầu ngực căng tròn
của một thiếu nữ trinh trắng… Tớ muốn ngợp thở… Thì ra cô bé Thơ 17 tuổi, con
bác Thể đầu xóm. Nàng vẫn không biết có người nhìn trộm, bình thản ưỡn người,
đưa hai tay vuốt nước trên mớ tóc dày. Trời ơi, tớ như kẻ say rượu, loạng
choạng ngã dúi vào bụi gai. Nghe tiếng động, nàng vội vàng vơ quần áo bỏ chạy.
Từ đêm ấy tớ bắt
đầu mê nàng. Không ngờ cô bé cùng xóm mà duyên dáng, xinh đẹp, đáng yêu đến
thế… Rồi bọn tớ yêu nhau. Những đêm trăng đẹp tớ hẹn Thơ ra bụi cây bờ giếng
nói chuyện vớ vẩn, rồi thơm nhau. Nghe tớ kể đã nhìn trộm nàng tắm, nàng cấu
vào lưng tớ bảo: “Trông hiền thế mà ghê!”…
Chuyện tình yêu quả
là kỳ diệu. Chúng tôi đi suốt đêm không biết mệt. Tảng sáng hôm sau đến nhà anh
Thụy. Lúc bấy giờ xóm làng khá yên tĩnh. Đâu đó rất xa xăm, tiếng bom ì ầm vọng
đến. Lác đác tiếng chó sủa, tiếng gà gáy muộn. Anh Thụy bảo ngồi chờ để anh vào
gặp vợ trước. Nhưng anh vừa đến đầu sân thì tấm liếp cửa hé mở, một bà già gầy
guộc đi ra, khóc rưng rức: “Thụy đấy ư con! Sao không báo trước?!...”
Anh Thụy gỡ tay mẹ:
“Con tranh thủ mẹ ạ! Thế nhà con đâu?” Bà gạt nước mắt, ngơ ngác một lúc rồi
kéo anh Thụy ra góc sân, rên rỉ: “Mẹ xin con, Thụy ơi! Hãy vì mẹ mà tha thứ, nó
trẻ người, non dạ, khôn ba năm dại một giờ! Nhưng là dâu hiền, đừng bắt tội…
Không có nó mẹ chết mất!”.
Anh Thụy hoảng hốt
nhìn mẹ. Hình như anh đã hiểu mọi chuyện, anh ngây người sững sờ, lảo đảo vào
nhà.
Bấy giờ mẹ anh Thụy
mới nhìn thấy tôi, bà cảm thấy đã tìm được đồng minh, tất cả chạy đến, cầm tay
tôi:
- Con cùng đơn vị
với thằng Thụy. Mẹ coi như con ruột, không dấu làm gì. Hoàn cảnh neo đơn, chỉ
có vợ nó là con dâu, đẹp người, tốt nết. Nó “trót dại”, nhưng mẹ thương, không
muốn thằng Thụy làm khổ. Đồng đội với nhau, con lựa lời khuyên bảo “em”, giúp
mẹ, không bao giờ mẹ dám quên ơn!.
Nghe mẹ khẩn khoản,
tôi bối rối nói một câu ngớ ngẩn: “Mẹ cứ yên tâm! Con sẽ động viên anh Thụy.
Anh ấy là chỉ huy, phải gương mẫu chứ!”.
Tôi vác ba lô theo
mẹ vào nhà. Căn nhà lá ba gian tuềnh toàng nhưng sạch sẽ, ngăn nắp. Bên phải có
liếp ngăn làm buồng, cửa che tấm màn bằng dù pháo sáng. Có tiếng phụ nữ khóc
tức tưởi. Anh Thụy từ trong buồng đi ra như người mất hồn, vấp chiếc ghế băng,
anh loạng choạng ngồi xuống chõng tre gần đó. Vừa lúc ấy mặt đất rung chuyển,
tiếng bom nổ ầm ầm trộn lẫn tiếng động cơ phản lực gầm rú, tiếng đạn cao xạ nổ
lụp bụp trên bầu trời. Chắc một tốp cường kích bất ngờ đánh tuyến giao thông.
Không gian lại yên tĩnh. Dưới bếp tiếng gà mái cục tác, cục tác, hối hả gọi lũ
con đang liếp chiếp kiếm mồi. Anh Thụy đứng dậy thủng thẳng bảo:
- Cậu là khách. Tắm
rửa, nghỉ ngơi cho lại sức. Mọi việc để mặc tớ.
Tôi cảm thấy khó
xử, lúng túng tìm chỗ ngồi, tìm chỗ đứng, hết vào nhà lại ra sân. Anh Thụy
không chú ý đến tôi nữa, anh nói gì đó với mẹ rồi ra vườn bắt gà cắt tiết, làm
cơm. Mẹ anh Thụy đã bình tĩnh hơn, bà dẫn tôi ra ngõ chỉ đường đến giếng nước
đầu xóm: ‘Nước giếng trong lắm, con tắm cho mát mẻ”. Chợt bà hạ giọng thì thầm:
“Mẹ vẫn thấy lo, chỉ sợ thằng Thụy nó làm điều bậy bạ”.
Tôi bơ vơ đi dưới
những hàng cây hoang dại, lòng dạ ngổn ngang. Giếng nước đầu xóm đây rồi, nước
trong vắt trào lên khỏi miệng giếng, mát rượi. Tôi bỗng tưởng tượng ra hình ảnh
người con gái đang nghiêng mình xối nước dưới đêm trăng mà anh Thụy đã kể. Tôi
buột thở dài tiêng tiếc điều gì đó thật mơ hồ.
Gần trưa, mâm cơm
được bày trên chiếc chõng tre nhỏ, hai bên chõng đặt ghế băng đóng bằng gỗ
thông hòm đạn. Thức ăn có thịt gà luộc, lòng gà xào, thịt hộp, gà hầm khoai sọ,
rau sống. Trên mâm còn thêm nửa chai rượu trắng, sáu chiếc ly thủy tinh nhỏ, có
cái đã sứt mẻ. Anh Thụy hỏi:
- Mẹ đã mời các
đồng chí lãnh đạo xã chưa?
Mẹ anh Thụy bảo:
- Bây giờ bác Đạo
làm bí thư kiêm chủ tịch. Còn anh Hán, con bác Hạn làm chủ tịch Hợp tác xã. Các
đồng chí ấy quan tâm đến nhà ta lắm. Mẹ đã mời, nhất định các đồng chí ấy sẽ
đến. Nhưng con cư xử cho đàng hoàng, ăn ở phải biết làng, biết xóm.
Lại một đợt bom nổ
phía bên kia đồi cách nhà anh Thụy không xa. Tiếng máy bay phản lực xa dần. Cột
khói đen ngòm lừng lững đùn lên. Mẹ anh Thụy chép miệng lo âu.
- Nó đánh trúng chân hàng, chắc là xăng dầu bị cháy. Hồi này quê mình không
ngày nào ngớt tiếng đạn bom.
Quá trưa các đồng
chí lãnh đạo địa phương mới tất tả đến. Đồng chí bí thư cao tuổi nhưng nhanh
nhẹn, hoạt bát, cất tiếng chào oang oang từ đầu ngõ: “Các đồng chí thấy đó, hậu
phương bây giờ khác chi tiền tuyến, suốt ngày bom đạn. Chúng tôi định tới từ
sớm nhưng lại phải điều động nhân công giúp bộ đội cứu chân hàng trên
rú”. Đồng chí bí thư bắt tay anh Thụy, khen anh tiến bộ. Nắm vai tôi lắc
lắc, hỏi thăm sức khỏe toàn đơn vị. Đồng chí chủ nhiệm còn trẻ, mặt hơi gãy,
chân đi tập tễnh, lúng túng chào cả nhà.
Khi mọi người đã
ngồi quanh mâm, anh Thụy đứng dậy bảo:
- Để gọi Thơ ra
cùng ăn cơm.
Không khí đang vui
vẻ bỗng chững lại. Mẹ anh Thụy can:
- Thôi con ạ! Vợ
con đang mệt, ăn cơm sau cũng được.
Anh Thụy vẫn đi vào
buồng vợ. Đồng chí bí thư ngẩng đầu ngắm trần nhà vẻ bình thản. Đồng chí chủ
nhiệm liếc đồng chí bí thư, thăm dò.
Anh Thụy đỡ vợ ngồi
xuống cạnh mình, tay run run. Lúc này tôi mới nhìn rõ chị Thơ. Cặp mắt ngơ ngác
cụp xuống. Da tái xanh. Cổ giần giật. Dù ngực với vòm bụng bị đầy ra nhưng vẫn
còn nét duyên dáng của một thiếu nữ nhan sắc chốn đồng quê. Chị lúng túng chào,
răm rắp làm theo sự sắp xếp của chồng. Anh Thụy, điềm nhiên mời mọi người nâng
ly, chọn miếng thịt gà ngon nhất, to nhất, xé nhỏ, đặt vào bát vợ:
- Em phải ăn lấy
sức!
Nghe giọng nói như
mệnh lệnh của anh, chị Thơ sợ sệt nhai, nuốt, như chiếc máy. Mẹ anh Thụy thắc
thỏm nhìn con. Đồng chí bí thư làm ra vẻ không quan tâm, khề khà khen rượu
ngon. Đồng chí chủ nhiệm thất sắc liếc trộm anh Thụy, gật gật tán thưởng ý kiến
đồng chí bí thư. Mẹ anh Thụy bảo tình làng, nghĩa xóm quý hóa lắm, nhất là thời
buổi đạn, bom, loạn lạc này...
Bữa cơm thân mật
cũng sắp tàn. Anh Thụy đứng dậy, rút khẩu súng K54 sáng bóng ra khỏi túi. Mẹ
anh Thụy sợ quá, buột tay để rơi bát xuống mâm cơm. Đồng chí bí thư, đồng chí
chủ nhiệm há hốc mồm, nghiêng người né họng súng. Còn tôi, chăm chăm nhìn anh
Thụy, tim đập liên hồi. Anh đến gần bàn thờ, đặt khẩu súng, từ tốn như những
khi phát biểu trước cuộc họp:
- Kính thưa các
đồng chí lãnh đạo xã! Kính thưa mẹ! Nhân tiện đông đủ mọi người ở đây, con xin
phép được làm rõ sự thật, giải quyết vấn đề của vợ chồng con...
Mẹ anh Thụy cuống
quýt chạy đến, kéo áo anh:
- Mẹ xin con! Hãy
vì mẹ, con ơi!
Chị Thơ ôm mặt
nghẹn ngào. Đồng chí chủ nhiệm run lẩy bẩy. Đồng chí bí thư luống cuống nghĩ
cách xử trí. Trước tình thế ấy, tôi không đành lòng, buộc phải đứng dậy, đến
bên anh Thụy:
- Chuyện riêng gia
đình, theo tôi anh không nên nói ở đây. Có gì, trong nhà đóng cửa bảo nhau.
Anh Thụy phớt lờ
lời khuyên của tôi, khẽ gỡ tay mẹ:
- Mẹ cứ yên tâm!
Con phải nói rõ sự thật, kẻo sau này mang tiếng gia đình ta.
Anh Thụy nâng vợ
đứng dậy. Chị Thơ lập cập trong tay anh:
- Thưa các đồng chí
lãnh đạo xã! Chắc mọi người đều chưa biết bố đứa trẻ trong bụng vợ tôi là ai?
Vâng, tôi xin nói rõ, dù mọi người chê trách... Bố đứa trẻ chính là tôi! Là
chồng Thơ!
Không khí như giãn
ra. Tất cả ngơ ngác bàng hoàng, tưởng đâu nghe lầm. Bằng giọng nghiêm trang,
anh Thụy nhìn thẳng vào đồng chí bí thư, kể:
- Đêm ấy đơn vị
hành quân qua địa phận xã nhà. Đến cầu Đức Thọ phải dừng lại chở công binh phá
bom nổ chậm. Vì mong muốn gặp vợ, tôi đã liều lĩnh “đào ngũ” hai tiếng đồng hồ,
chạy bộ tắt cánh đồng, vượt qua rú Đọi... Sự việc này, chỉ có vợ tôi biết. Bây
giờ tôi xin nói rõ để các đồng chí lãnh đạo xã thông cảm, khỏi mang tiếng xấu
cho gia đình tôi, cũng như địa phương ta.
Đồng chí bí thư
cười gượng, không biết nên chúc mừng hay phê phán. Đồng chí chủ nhiệm sượng
sùng xin phép ra về. Chỉ có mẹ anh Thụy là hả hê, tíu tít cám ơn các đồng chí
lãnh đạo xã đã quá bộ tới thăm, làm chứng cho gia đình.
Anh Thụy dìu vợ vào
buồng, không nói thêm một lời.
Đêm ấy anh Thụy nằm
chung với tôi. Nửa đêm thức giấc tôi thấy anh vẫn chưa ngủ, đi lại ngoài sân,
bồn chồn. Gần sáng anh Thụy đánh thức tôi dậy, ăn vội bát cơm nóng rồi tất tả
lên đường. Anh Thụy bảo, phải đi gấp, sợ đơn vị di chuyển vào phía trong thì
gay to.
Chúng tôi đi mải
miết theo những con đường mòn nối các chòm xóm miền Trung. Dọc đường gặp nhiều
đơn vị bộ binh, thanh niên xung phong hành quân, chào tíu tít. Anh Thụy luôn
đăm chiêu, không chuyện trò. Sẩm tối, chúng tôi đến một chòm xóm hoang vắng ven
sườn đồi chi chít hố bom. Tìm mãi không gặp dân, chỉ thấy những túp lều ngả
nghiêng đầy cỏ dại. Anh Thụy bảo chắc lạc đường, đành nghỉ chờ sáng đi tiếp.
Chúng tôi lấy lương khô ra ăn rồi mắc võng ngủ dưới vườn ổi dại...
Tôi ở cùng đơn vị
với anh Thụy hai năm nữa. Sau anh được đề bạt đại đội trưởng, chuyển sang trung
đoàn khác. Những ngày còn gần anh không bao giờ tôi thấy anh nói chuyện tình
yêu. Anh thường ít đùa vui, nhưng chiến đấu vô cùng mưu trí, dũng cảm, hết lòng
yêu thương chiến sĩ.
Đôi lần tôi định
hỏi chuyện gia đình anh, nhưng lại thôi. Giữa những đợt bom rơi khốc liệt,
những đêm kéo pháo vượt qua trọng điểm, những phút giây ly biệt đau thương...,
làm sao tôi nỡ gợi lại vết thương lòng của
anh?.../.
TRẦN QUANG VINH (BÀ RỊA VŨNG TÀU)
Người dân thôn Vạn Hạnh với cây kiệu
------------------------------
Cách đây hơn 10
năm, đối với người dân thôn Vạn Hạnh, thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành kiệu
được xem như là cây trồng chủ lực trong phát triển kinh tế gia đình của các hộ
dân ở đây, nhiều hộ đã xóa nghèo vươn lên làm giàu nhờ trồng kiệu. Tuy nhiên,
những năm gần đây, diện tích kiệu ngày càng thu hẹp do hầu hết đất trồng kiệu
trước đây đều nằm trong vùng quy hoạch. Hiện thôn Vạn Hạnh chỉ còn khoảng 5 hộ
còn duy trì trồng kiệu với diện tích khoảng hơn 5 ha.
Người dân ở thôn
Vạn Hạnh vẫn thường cấy lúa vào mùa mưa, trồng rau màu vào mùa khô và vào dịp
giáp tết Nguyên Đán bao giờ cũng chuẩn bị để trồng kiệu. Trong quá trình
phát triển nghề trồng kiệu, những người dân ở đây thấy kiệu có hiệu quả kinh tế
hơn các loại cây trồng khác như lúa và hoa màu.
Theo chỉ dẫn của
ông Phương - chủ tịch hội nông dân thị trấn Phú Mỹ, chúng tôi đã đến thăm vườn
kiệu của gia đình ông Bùi Văn Hoàng, tổ 15, thôn Vạn Hạnh, người có thâm
niên trồng kiệu đã 10 năm. Ông Hoàng quê ở Tiền Giang nhưng về lập nghiệp ở
thôn Vạn Hạnh. Thời gian đầu, gia đình ông trồng đậu phộng, đậu đen, đến năm
1989, ông chuyển sang trồng kiệu. Là người đã từng trồng nhiều loại cây trồng
trên mảnh đất này, ông Hoàng cho biết: trồng kiệu mang lại thu nhập gấp nhiều
lần so với trồng đậu, kinh tế gia đình ông phụ thuộc vào mùa trồng kiệu cuối
năm. Hiện gia đình ông trồng 1ha kiệu. Các năm trước với 1 ha đất trồng kiệu
ông có thể thu được hơn 10 tấn củ. Anh Trần Văn Tài, tổ 15, thôn Vạn Hạnh cho
chúng tôi biết thêm, gia đình anh cũng có thâm niên trồng kiệu gần 10 năm, mọi
năm trước anh thu lời từ 1ha kiệu khoảng 70 triệu đồng. Tuy nhiên, năm nay giá
giống kiệu gấp 3 lần năm ngoái, điều đó làm cho các hộ trồng kiệu vừa lo
lắng vừa hi vọng năm nay, giá kiệu sẽ bán được giá hơn mọi năm.
Đặc điểm của kiệu
rất thích hợp với đất pha cát. Thời gian từ khi trồng đến khi thu hoạch là 4
tháng. Thời điểm thích hợp nhất để xuống giống là vào tháng 8 âm lịch. Theo các
hộ dân ở đây thì trồng kiệu bao gồm nhiều công đoạn: chọn giống, làm đất,
kỹ thuật chăm bón, khâu nào cũng quan trọng quyết định đến sự sinh trưởng và
năng suất của kiệu. Ở địa phương, bà con chưa biết kỹ thuật chọn củ kiệu để
giống vì vậy đến mùa trồng kiệu, bà con nông dân phải mua giống từ các thương
lái hay phải lấy từ những vùng chuyên trồng kiệu như tỉnh Bình Dương, tỉnh Đồng
Tháp với giá từ 7 ngàn đến 10 ngàn đồng/kg. Một ha đất có thể trồng hết 1 tấn
kiệu giống. Anh Hoàng cho biết, tổng chi phí tiền giống, phân, thuốc trừ sâu
bệnh hết khoảng 20-30 triệu/1 ha. Nói về kinh nghiệm trồng kiệu, anh Trần
Văn Tài cho biết:
(Trích băng ghi
âm…)
Ông Bùi Văn Hoàng
còn cho biết thêm:
(Trích băng ghi
âm…)
Trung bình 1 ha
kiệu đạt năng suất từ 10 đến 12 tấn, điều kiện thuận lợi cho người trồng kiệu ở
đây là không phải lo đầu ra. Đến mùa vụ thu hoạch thương lái đến tận vườn thu
mua kiệu với giá bán tại vườn 10 ngàn đồng/kg. Như vậy, từ 1ha kiệu có thể thu
nhập trên 100 triệu đồng. Năm nào kiệu được mùa, thu nhập còn cao hơn.
Kiệu là món ăn mang
đặc trưng của ngày Tết, vị chua nhè nhẹ lẫn với vị ngọt man mát và hơi cay của
món dưa kiệu sẽ làm cho mâm cỗ ngày tết thêm phần hấp dẫn. Đối với người dân
trồng kiệu ở thôn Vạn Hạnh, thị trấn Phú Mỹ thì cây kiệu món quà đón tết mang
đến cái tết sung túc hơn.
Thanh Huyền
3 điểm ...
Trả lờiXóa